Tiểu luận Tìm hiểu nội dung và giá trị của di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh

Mục Lục

LỜI MỞ ĐẦU 2

PHẦN NỘI DUNG 5

Chương1:Nội dung bản di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh 5

1.1 Sơ lược về bản di chúc 5

1.1.1 Về tài liệu gốc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 5

1.1.2. Về bản Di chúc đã được công bố chính thức tháng 9-1969 6

1.1.3. Về việc khẳng định bản di chúc đã công bố bảo đảm trung thành với bản gốc . 7

1.1.4. Về ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh 8

1. 2. Nội Dung Của Bản Di Chúc 10

Chương 2: Giá trị và ý nghĩa của bản di chúc 15

2.1-Những tư tưởng trong Di chúc và nội dung bao trùm . 15

2.1.1.Tư tưởng chủ đạo trong bản di chúc. 15

2.1.2 Những băn khoăn trong di chúc. 17

2.2 Góc nhìn chủ nghĩa duy vật biện chứng. 19

2.3 Tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 21

2.4 Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong chỉnh đốn xây dựng đảng 26

2.4.1 Giá trị lý luận và thực tiễn to lớn 26

2.4.2 Những vấn đề về xây dựng Đảng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 26

PHẦN KẾT LUẬN 30

TÀI LIỆU THAM KHẢO 31

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9040 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu nội dung và giá trị của di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, trước đây chưa có điều kiện thực hiện. Nay mặc dù tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) thấy cần có kế hoạch thực hiện điều mong muốn ấy của Bác. Bộ Chính trị giao cho Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội thực hiện việc này.Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) dự định đến một thời điểm thích hợp sẽ công bố những điều chưa được công bố trong các bản viết Di chúc của Bác. Nay, nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 1.1.4. Về ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời lúc 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Quốc khánh của nước ta. Để ngày Bác mất không trùng với ngày vui lớn của cả dân tộc, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết định công bố Chủ tịch Hồ Chí Minh mất vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 3-9-1969. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) cho rằng nay cần công bố lại đúng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Nhân dịp này, Bộ Chính trị yêu cầu các tổ chức đảng, các cán bộ, đảng viên và nhân dân ta căn cứ vào Di chúc của Bác và lời thề thiêng liêng của chúng ta mà đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) thay mặt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã hứa với Bác để kiểm tra lại những việc chúng ta đang làm, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng và những nhiệm vụ công tác trước mắt, tức là làm tốt những điều Bác Hồ đã căn dặn để thỏa lòng mong ước của Bác và xứng đáng với Bác.Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta! Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại! Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì tổ quốc và nhân loại. Cùng với cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong tâm hồn, trí tuệ dân tộc Việt Nam và sự trân trọng, kính phục của nhân dân thế giới. 1. 2. Nội Dung Của Bản Di Chúc VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ---000--- Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn. Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng; thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta. Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là: “Người thọ 70, xưa nay hiếm”. Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ. Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa? Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột. Trước hết nói về Đảng – Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chu nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Còn non, còn nước, còn người Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay! Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to – là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc. Về phong trào Cộng sản thế giới – Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại. Về việc riêng – Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên nhi đông quốc tế. Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1969 HỒ CHÍ MINH Chương 2: Giá trị và ý nghĩa của bản di chúc 2.1-Những tư tưởng trong Di chúc và nội dung bao trùm . 2.1.1.Tư tưởng chủ đạo trong bản di chúc. Tư tưởng chủ đạo và bao trùm trong vẫn là tư tưởng: Không có gì quý hơn độc lập – tự do, Hòa bình- Thống nhất, Dân chủ và Dân giàu nước mạnh, tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, gỉải phóng con người, vì hạnh phúc của con người. Nghĩa là Di chúc thấm đượm tư tưởng và triết lý của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn VN- Hồ Chí Minh, nhưng được thể hiện bằng văn bản có tính Di chúc và nói về những việc cụ thể chung cho Đảng, cho Dân và cho mỗi người VN ta và cả đời riêng của Người. Có thể tóm tắt mấy ý chính từ Di chúc (qua các bản viết từ năm 1965 đến 1968) như sau: - Vấn đề quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn trong thời kỳ cuối cùng của cuôc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đạt được mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước. - Vấn đề phải có kế hoạch chu đáo, chủ động (“tránh bị động, thiếu sót, sai lầm”) khắc phục hậu quả chiến tranh trên các lĩnh vực kinh tế xã hội; tình thương và trách nhiệm con người và các tầng lớp xã hội (thư tháng 5/1968). - Vấn đề kế hoạch phát triển về kinh tế xã hội, sinh thái, xây dựng lại quê hương đất nước nhằm phục vụ con người, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. - Vấn đề mục tiêu và động lực cách mạng và phát triển: độc lập – tự do, Hòa bình- Thống nhất, Dân chủ và giàu mạnh, - Vấn đề cái cách, đổi mới, chống trì trệ, bảo thủ, hư hỏng và mở rộng dân chủ, - Vấn đề Đảng cầm quyền (chỉnh đốn lại Đảng). Đạo đức cách mạng của người cán bộ đảng viên. - Vấn đề đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân và đoàn kết quốc tế, niềm tin ở sức mạnh của nhân dân.. - Vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng cho đời sau. - Vấn đề phong trào cộng sản thế giới và việc cảm ơn nhân dân các nươc giúp đỡ cuộc khàng chiến của VN. Vấn đề đền ơn đáp nghĩa những người đã hy sunh, thương binh, gia đình có công với cách mạng. - Vấn đề quan niệm về cuộc sống và cái chết, với việc ứng xử với chính thi hài của Người và việc riêng, vấn đề văn hóa đối với người đã khuất. Như vậy là có 10 vấn đề mà Hồ Chí Minh đề cập trong Di chúc, toát lên tinh thần duy vật nhân văn và tinh thần đổi mới - phát triển. Những nội dung quan trọng ấy là hết sức căn bản thể hiện tinh thần nhân văn và sự phát triển liên quan tói số phận và sự nghiệp của dân tộc, của nhân dân, của Đảng và mỗi người VN ta. Hồ Chí Minh quan tâm đến những vấn đề mà Người trăn trở nhiều và cốt yếu đối với cách mạng. Dù gắn với thời điểm lịch sử cuối cuộc chiến tranh và sau chiến tranh nhưng nhiều vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Trong những nội dung ấy có nội dung mang tính khẳng định và có nội dung mang tính dự báo. Như, khẳng định cuộc kháng chiến nhất định sẽ giành thắng lợi hoàn toàn; và dự báo là chỉ mấy năm nữa. Hoặc có những dự báo và đề xuất như về trước hết phải chỉnh đốn Đảng, hoặc vấn đề miễn thuế nông nghiệp cho nông dân- khoan thư sức dân, vấn đề cải cách giáo dục, vấn đề chống bảo thủ, hư hỏng, dự cảm về đổi mới… 2.1.2 Những băn khoăn trong di chúc. -Băn khoăn thứ nhất là tại sao Hồ Chí Minh không nhắc đến nhà nước, cải cách nhà nước mà chỉ nói chỉnh đốn Đảng. Đảng cầm quyền thì liên quan nhiều đến nhà nước, chỉnh đốn Đảng cầm quyền là tiền đề để chỉnh đối nhà nước, nhưng thật ra chưa phải trực tiếp là vấn đề nhà nước, hoặc lúc ấy vấn đề cải cách nhà nước chưa đặt ra. -Băn khoăn thứ hai là nói phát triển kinh tế, nhưng theo hướng và mô hình như thế nào? Vẫn như mô hình thời tập trung, bao cấp chăng? Đúng là lúc này Người chưa thể thấy được những vấn đề mà chỉ đến thời Đổi mới, Đảng và nhân dân ta mới nhận thức ra, cái gì lạc hậu và cái gì phải thay đổi và vươn tới trong lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực nhà nước. -Băn khoăn thứ ba là Ta thấy Hồ Chí Minh nêu lên vấn đề điện táng, hỏa táng và tự mình muốn thực hiện điều đó sau khi mất, phải chăng ngoài ý nghĩa sinh thái và tiết kiệm tiền bạc, phải chăng còn là Người muốn nêu gương, trong khi tập quán này còn hạn chế ở nước ta. Nhưng chúng ta không theo ý Bác mà lại thực hiện hình thức ướp di hài và làm lăng, với lý do riêng và có ý nghĩa riêng của nó. Thế thì hiện nay, chúng ta thực hiện chủ trương nhân rộng hình thức hỏa táng/ điện táng như thế nào? -Băn khoăn thứ tư: Trong khi nói về xây dựng nước VN mới ngoài mục tiêu hòa bình, thống nhất Hồ Chí Minh chỉ nhấn mạnh xây dựng Dân chủ và Giàu mạnh. Còn các mục tiêu khác như Tự do, Hạnh phúc thì không thấy Di chúc nhắc tới. Vậy thì dân chủ và tự do phải chăng là đồng nhất? Ta hay nói tự do dân chủ. Trong trường hợp này, tự do như quyền công dân lthì nó gắn liền với dân chủ. Nhưng quyền tự do độc lập của dân tộc và tự do cá nhân trong bản thân họ thì nó là tự do chứ không đơn giản chỉ thuộc phạm trù dân chủ như là quyền công dân. Do vậy không chỉ là quyền dân tộc, quyền công dân mà còn là quyền làm người, như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Cho nên không chỉ là dân chủ, công bằng mà còn là tự do hạnh phúc là những mục tiêu lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của chế độ mới do cách mạng ấy tạo ra và phát triển. - Về hạnh phúc thì trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được đề cập tới. Nó là một mục tiêu lớn không chỉ hạnh phúc cá nhân, gia đình như trong văn kiện Đảng đại hội X khi nói về con người, mà ngày nay còn có phạm trù hạnh phúc xã hội, hạnh phúc quốc gia, như xây dựng nền kinh tế hạnh phúc, xây dựng xã hội hạnh phúc. Giàu mạnh là cần nhưng chưa đủ mà còn là tự do và hạnh phúc. - Về dân chủ, ngày nay ta hay nói phát huy dân chủ XHCN, nhưng Hồ Chí Minh rất nhấn mạnh thực hành dân chủ rộng rãi, hoặc mở rộng dân chủ. Hơn nữa nếu không tiếp tục xây dựng, phát triển nền dân chủ mới theo hướng xã hội chủ nghĩa thì không thể nói phát huy và khó mà có được dân chủ XHCN, vì nền dân chủ ở VN còn hạn chế và thấp, nhiều cơ chế chưa thích hợp. Về những “hạn chế” nói trên, có thể giải thích rằng, Hồ Chí Minh chỉ nhấn mạnh những mục tiêu cốt lõi nhất chăng? - Cần nêu thêm một đề nữa là so với bản Di chúc mà BCH TW công bố chính thức với các bản bổ sung của Hồ Chí Minh thì thấy còn sót vấn đề gì quan trọng nhất. phải nó rằng bản Di chúc công bố chính thức đã bổ sung và sắp xếp theo lôgích và đảm bảo các ý tứ chính của Hồ Chí Minh rất thuyết phục. Nhưng có 4 ý quan trọng đang bị bỏ sót hay chưa chú ý: 1) là vấn đề chỉnh đốn lại Đảng (đây là vấn đề quan trọng bậc nhất); 2) bỏ thuế nông nghiêp một năm cho nông dân;  3) vấn đề đấu tranh chống lại nhũng gì cũ kỹ, hư hỏng, trong đó chú ý vấn đề sửa dổi chế độ giáo dục, tạo ra những cái mới tốt tươi, và phải dưạ vào sức mạnh nhân dân mới có thể giải quyết được.  4) vấn đề Hồ Chí Minh nói về hỏa táng và chôn cất như thế nào; Có thể lúc ấy, những vấn đề này công bố chưa thích hợp, hoặc chúng ta chưa thấy hết ý nghĩa thực tiễn của nó, hoặc có nhận thức khác. Dầu sao thì tất cả những vấn đề đó đã được công khái trong thời kỳ đổi mới (HCM toàn tập, tập 12) và được Trung ương giải thích. 2.2 Góc nhìn chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật nhân văn là lý luận triết học tổng quát, hoàn chỉnh nghiên cứu nguồn gốc, bản chất, cơ cấu, hoạt động của con người và sự nghiệp giải phóng, phát triển con người, khắc phục những quan niệm duy tâm, phiến diện, siêu hình và duy vật tầm thường, phản nhân văn về con người và sự nghiệp giải phóng phát triển con người tự do, toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh hay nội dung trong Di chúc là sự quan tâm tới con người, tin tưởng ở con người, cá nhân, tầng lớp, giai cấp mà cả dân tộc, toàn dân với tình thương, lẽ phải và trách nhiệm, nhất là vấn đề dân sinh sau thời kỳ chiến tranh với nhiều hậu quả nặng nề…, của một Đảng cầm quyền, của những người cộng sản. - Muốn vậy phải phát triển kinh tế và văn hóa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân cả về vật chất và tinh thần. Nghĩa là độc lập dân tộc phải vươn tới nội dung mới: tự do, dân chủ, giàu mạnh, công bằng và hạnh phúc cho mọi người. - Để thực hiện nhiệm vụ đó phải đoàn kết từ trong Đảng ra ngoài xã hội, đoàn kết quốc tế, phải dựa vào sức mạnh nhân dân, thực hiện (thực hành) dân chủ rộng rãi; phải cả́i cách, đổi mới chống sự trì trệ, bảo thủ, hư hỏng và mở rộng tư do và dân chủ, phải xây dựng con người mới, lực lượng cách mạnh, nhất là thế hệ trẻ, phát triển và phát huy nhân tố con người. - Đó là một sự thay đổi có tính cách mạng lâu dài, sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, phải tiếp tục cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa dổi mới, cải cách và phát triển, quá độ và rút ngắn, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Mỗi người chủ động phát huy năng lực của mình, vừa cải tạo xã hội vừa cải tạo bản thân minh, vừa qua thực tiễn vừa qua giáo dục và tự giáo dục cả về chân - thiện - thể- mỹ. - Sống là cống hiến, hiến thân, phấn đấu vì sự nghiệp độc lập, thống nhất của dân tộc, dân chủ và giàu mạnh của quốc gia và hạnh phúc của đồng bào. Chết là thanh thản trở về với thiên nhiên, với ông bà tổ tiên và các vị tiền bối cách mạng, và để lại tình thương yêu cho thế hệ trẻ và tinh thần, trí tuệ, đạo đức cho dân cho nước, tạo nên nguyên khí quốc gia, hồn thiêng sông núi, tiếp tục sống mãi với non sông đất nước, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên. Đúng là “Sống là cho và chết cũng là cho” (Tố Hữu).Tinh thần ấy là tinh thần của chủ nghĩa duy vật nhân văn, và nó có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn dài lâu trong sự nghiệp cách mạng và phát triển của dân tộc ta. Nói cách khác, đó là “tiếp cận nhân văn” (GS VS Phạm Minh Hạc) tất nhiên không chỉ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo mà là đối với sự phát triển nói chung. 2.3 Tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh  Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn, trước khi đi xa đã để lại cho dân tộc ta, đất nước ta một di sản vô cùng quý giá đó là Di chúc của Người. Một trong giá trị tinh thần lớn lao và mang ý nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc trong Di chúc của Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn cao cả, nổi bật là những quan điểm vì con người và giải phóng con người. Đó là những tư tưởng thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo, một triết lý nhân sinh mà Người đã dày công xác lập và thực hiện suốt cuộc đời. Cội nguồn tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự kết hợp truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam với truyền thống nhân ái của nhân loại, đó là lòng thương yêu, quý trọng con người gắn với lòng yêu nước, thương dân nồng nàn. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc của Người phản ánh nội dung của chủ nghĩa nhân văn cách mạng, sáng ngời lý tưởng cộng sản, với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Xuyên suốt trong Di chúc của Người đó là tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp người trong xã hội. Việc đầu tiên mà Người quan tâm ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi là "công việc đối với con người”. Người chỉ rõ, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man đã gây ra biết bao đau thương cho mỗi người dân Việt Nam; "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Theo Người, đó là công rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang, bởi nó luôn mang nội dung tư tưởng nhân văn cao cả là chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng đem lại cho xã hội và mọi người những cái mới mẻ, tốt tươi.Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải có những chính sách, việc làm cụ thể đối với từng đối tượng, từ những anh hùng liệt sĩ, thương binh và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ đến những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và các lực lượng thanh, thiếu niên, phụ nữ đã đóng góp xương máu và công sức cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng nhân văn cao cả trong vĩ đại của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đó, bởi đối tượng quan tâm của Người còn là “những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện". Đối với các liệt sĩ, Người căn dặn phải làm những việc cần thiết nhất để “ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ”, đồng thời “để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói, bị rét. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, Người căn dặn: chúng ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở những lớp dạy nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết bước vào cuộc sống tự lập, tự lực cánh sinh. Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu Người yêu cầu "Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc", làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh và văn minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thường nhắc nhở chúng ta: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Do đó Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo công tác giáo dục, đào tạo, rèn luyện cho lớp người trẻ tuổi để kế tục sự nghiệp cách mạng, trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Người chỉ rõ cần phải sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đối với phụ nữ, Người luôn dành sự quan tâm chăm lo đặc biệt, trong Di chúc Người chỉ rõ mục tiêu vươn tới mang tính nhân văn cao cả của người phụ nữ trong chế độ mới: "Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". Người yêu cầu: "Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo". Mang trong mình đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của người Việt Nam, với đối tượng là nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào ta đã ra sức góp của, góp người, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Người chỉ rõ cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải thực hiện cho được là: “Đánh tan thực dân, giải phóng dân tộc, tranh lại thống nhất và độc lập, xây dựng nước Việt Nam dân chủ mới” và phải “Lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Theo Người, chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác mà chính là làm mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng và tự do. Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định: “Nếu nước nhà độc lập mà dân không không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy, suốt cuộc đời hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trước lúc đi xa, mong muốn cuối cùng của Người là: "Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Trong di chúc, Người đặc biệt nêu lên ý nghĩa nhân văn trong việc Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành với nhân dân. Đây thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người. Người viết: "Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi". Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội mới phải theo hướng lấy con người làm trung tâm, để thực hiện được điều đó, Đảng Cộng sản phải giữ vững vai trò lãnh đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là chống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu nội dung và giá trị của di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh.doc
Tài liệu liên quan