Tiểu luận Tìm hiểu phân tích chỉ thị Kháng chiến - kiến quốc

Mục Lục

Lời Mở Đầu 1

Phần I: Nội dung chỉ thị”kháng chiến kiến quốc” 2

Phần II:Tìm hiểu phân tích chỉ thị”kháng chiến-kiến quốc” 11

1.Hoàn cảnh lịch sử nước ta 1945 12

1.1)Khó khăn 12

1.2)Thuận Lợi 15

2.Những Đối Sách Của Đảng . 16

2.1.Chủ trương của Đảng 16

2.2.Nhiệm vụ 17

2.3.Hành động 18

2.4.Kết quả ,ý nghĩa và bài học kinh nghiệm 20

III:Kết Luận 23

Tài Liệu Tham Khảo 24

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12856 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu phân tích chỉ thị Kháng chiến - kiến quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc dân đảng và nâng cao sự tin tưởng của quốc dân vào thắng lợi cuối cùng, khêu gợi chí cǎm hờn chống thực dân Pháp nhưng tránh khuynh hướng "vị chủng" (Chauvinisme). Trong công tác tuyên truyền, đặt riêng bọn thực dân Pháp ra một bên mà đánh (đừng bỏ cả Pháp, Anh, ấn, Nhật vào một bị và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng công kích nước Pháp và dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp). Về kinh tế và tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Khuyến nông, sửa chữa đê điều. Lập quốc gia ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại các ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Về cứu tế, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức "bữa cháo cầm hơi",v.v. động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn "cứu đói", và các "đội quân trừ giặc đói" để giồng giọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên cho các quỹ cứu tế, tổ chức việc tiếp tế, mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu, v.v.. Về vǎn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động vǎn hoá cứu quốc, kiến thiết nền vǎn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá. 8. Muốn thực hành những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển. Về Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên, đặc biệt chú trọng gây cơ sở xí nghiệp của Đảng cho thật rộng, làm sao cho sự phát triển của Đảng ǎn nhịp với sự phát triển của công nhân cứu quốc. Tránh cả hai khuynh hướng: chỗ thì tổ chức Đảng hẹp quá, chậm quá, và chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi câu chấp của thời kỳ hoàn toàn bí mật (ví dụ từ Quảng Ngãi và nhiều tỉnh ở Bắc Bộ), chỗ thì tổ chức Đảng rộng quá, nhanh quá khiến cho những phần tử phức tạp có thể len vào Đảng (ví dụ ở Hà Tĩnh và nhiều tỉnh ở Nam Bộ). phải tổ chức ra các tổ nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác, bao gồm tất cả những phần tử có khuynh hướng c.s2) hay cảm tình c.s do người c.s điều khiển, nhưng đồng thời phải ngǎn ngừa những đảng viên tiêm nhiễm những thói tiểu tư sản và mắc bệnh của chủ nghĩa công khai (légalisme) như ta thường thấy trong các thời kỳ hoạt động hợp pháp, ở bất cứ một nước nào. Các tổ chức của Đảng phải sinh hoạt cho đều và không vì lẽ gì để cho nó rời rã, loạc choạc. Tổ chức các chi bộ trong các cơ quan hành chính hay trong các hội hợp pháp; củng cố đảng đoàn trong đó, thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp sự hoạt động bí mật với sự hoạt động công khai, điều hoà hai sự hoạt động ấy, coi công tác bí mật vẫn là gốc, phân công giữa các đồng chí bí mật và công khai cho rành mạch, dứt khoát, không để cho các cơ quan bí mật trở thành xung đột hay đối lập với các cơ quan công khai. Các cơ quan chấp hành các cấp phải nǎng ra thông cáo bí mật để báo cáo tình hình và chủ trương chung của Đảng và chỉ thị công tác cho các cấp dưới; ra những sách nhỏ nói về công tác và chủ nghĩa. 9. Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc. Thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới. Tổ chức thêm những đoàn thể cứu quốc mới vào Mặt trận V.M (ví dụ: "Việt Nam Công giáo cứu quốc hội" và "Việt Nam hướng đạo cứu quốc đoàn", v.v.). Giúp cho "Việt Nam Dân chủ Đảng" thống nhất và phát triển để thu hút vào mặt trận những tầng lớp tư sản, địa chủ yêu nước và tiến bộ. Giúp "Việt Nam Nông gia cứu quốc hội" phát triển và bành trướng thế lực (hội này có thể lấy tên khác miễn nó tham gia vào Mặt trận V.M hay cảm tình với V.M và ủng hộ Chính phủ). San phẳng những xung đột xích mích giữa các đoàn thể trong mặt trận nhất là giữa các hội cứu quốc và Việt Nam Dân chủ Đảng. San phẳng những mâu thuẫn giữa U.B.N.D và U.B.V.M3), trừ diệt hiện tượng hai chính quyền cạnh tranh: "chính quyền" U.B.N.D và chính quyền U.B.V.M. Chấn chỉnh lại Tổng bộ V.M và làm cho nó có sinh hoạt đều, và nǎng có chỉ thị xuống cho các đoàn thể trong mặt trận. Tổng bộ V.M phải thành lập một bộ tuyên truyền để điều khiển các tờ báo trong mặt trận và ra một loại sách phổ thông của mặt trận. Những người c.s bắt buộc phải vào các đoàn thể cứu quốc mà làm việc, và vận dụng trong các "U.B.V.M" (Uỷ ban mặt trận) ở địa phương cũng như trong Tổng bộ V.M cho đến toàn quốc hội nghị lần thứ 2 của V.M (họ vẫn nhân danh là một phần tử cứu quốc trong V.M do V.M uỷ nhiệm và chấp hành công việc của mặt trận). Gia khẩn việc củng cố các đảng đoàn trong các đoàn thể mặt trận và do đó duy trì và củng cố quyền lãnh đạo mặt trận. 10. Về chính quyền, chấn chỉnh lại các bộ, và nếu vì lý do cần thiết thống nhất dân tộc và xúc tiến ngoại giao thì có thể cải tổ Chính phủ trước ngày họp Quốc hội. Chính phủ cải tổ ấy vẫn là Chính phủ lâm thời. Chiểu theo tinh thần bản dự thảo hiến pháp mới và nhu cầu của tình thế mà ban hành những sắc lệnh để mang lại ngay những tự do, và hạnh phúc thực tế cho nhân dân, trong phạm vi điều kiện cụ thể của hoàn cảnh cho phép. Xem xét lại các nghị định của các U.B.N.D xứ và địa phương để sửa chữa hay thủ tiêu nếu cần. Giải quyết một cách hợp lý vấn đề ruộng đất và thuế khoá. Trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khǎn về nội trị và ngoại giao và dựa vào thế lực người mà ngóc đầu dậy, trừng trị bọn chia rẽ, bọn thất bại (defaitisme), bọn đầu cơ tích trữ và bọn lạm quyền nhiễu dân. Trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến Nam Bộ và Trung Bộ (phái uỷ viên Chính phủ vào điều khiển Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ). Cải cách chính quyền nhân dân ở địa phương và thanh trừng những Uỷ ban nhân dân địa phương và cải thiện cách làm việc của Uỷ ban ấy. 11. Về việc kháng chiến hiện nay ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ, giặc Pháp chiếm được nhiều tỉnh lỵ, nhưng ta vẫn làm chủ ở thôn quê. Trái lại ở Lào mấy thành phố lớn như Viêntiane, Takhek, Savan, Xiêng Khuổng, Sầm Nưa, Sêpôn, v.v. vẫn do quân Lào, có quân Việt Nam giúp sức làm chủ. Còn ở thôn quê, quân Pháp vẫn có thể hoành hành. ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ quân ta bao vây quân Pháp ở các thành thị, trái lại ở Lào, quân Pháp thỉnh thoảng lại bao vây quân ta ở các thành thị. Vậy nhiệm vụ chiến thuật của ta ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ là phải cắt đứt dây liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong toả những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự. Còn ở Lào, thì nhiệm vụ chiến thuật là phải tǎng gia công việc võ trang tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn quê làm cho Mặt trận thống nhất kháng Pháp của Lào - Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê đặng bao vây lại quân Pháp ở những nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào. Còn ở Cao Mên thì phải thành lập ngay liên quân Mên - Việt và làm cho chiến tranh du kích lan sang đất Mên. Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính sách bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành "nhà không đồng vắng" nếu quân Pháp tràn về quê. Điều cốt tử là phải giữ vững liên lạc giữa các chiến khu để thống nhất chỉ huy, nơi nào rút khỏi thành thị thì quân ta phải chiếm đóng ở những địa điểm chiến lược lợi hại tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Các vùng chiến tranh chưa lan đến cũng phải chuẩn bị đối phó khi tiến khi lui; kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui cũng phải hết sức chu đáo (phòng đủ mọi việc, địa điểm, cán bộ, lương thực, thuốc men, quần áo, võ khí, vật liệu, cơ kiện, v.v.). 12. Về việc chống nạn đói phải đề phòng nạn đói cuối nǎm và sang đầu nǎm mới sẽ hết sức trầm trọng ở miền Bắc Đông Dương. Ngay lúc này có một số khá đông đồng bào Bắc Bộ đã đói rồi. Công việc cứu đói cũng như công việc đánh giặc. Vậy các Đảng bộ hãy thi hành gấp rút những phương pháp dưới đây: Khuyến nông, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau để tiếp tục cấy cày như thường, thực hành khẩu hiệu "không bỏ một thước đất hoang", tổ chức tiếp tế, ngǎn cấm đầu cơ tích trữ, tổ chức cứu tế, thực hành khẩu hiệu "sẻ cơm nhường áo" ca Hồ Chủ tịch. Về phần Chính phủ phải lo nhập cảng ngũ cốc. Những công việc trên đây, muốn có kết quả, các đồng chí phải hết sức vận động các tầng lớp phú hào, địa chủ tham gia. 13. Về việc tổng tuyển cử sắp tới, phải xúc tiến việc sửa soạn tổng tuyển cử và mỗi tỉnh phải đặt ngay một cái sổ tên những người ứng cử để kịp cổ động bầu. Nguyên tắc đặt sổ: đảng viên 1/3, người của các đoàn thể trong mặt trận 1/3, người ngoài mặt trận 1/3 (song tỉnh nào, thế lực các đảng phái đối lập mạnh thì số đảng viên ra ứng cử có thể thêm lên). Những phần tử c.s hay người V.M không dùng danh nghĩa đoàn thể mình ra ứng cử để chứng tỏ mình không giành giật ảnh hưởng hay thế lực đảng phái mà chỉ có mục đích cứu nước, và mình trúng cử là vì mình được quốc dân yêu chuộng và tin cậy. Phải đưa những người đã ở trong U.B.N.D có nǎng lực hành chính ra ứng cử, còn những người bất lực và thiếu tư cách thì cho nghỉ để làm việc khác. Cần giới thiệu những vị thân hào có tài, có đức ra ứng cử, và cùng đứng chung một sổ quốc gia liên hiệp với những người ứng cử của V.M (chỗ nào không có lực lượng phản động tranh giành thì không cần giới thiệu sổ riêng). Các đồng chí thân mến. Chúng ta đang gặp nhiều khó khǎn trở ngại, trên bước đường tranh đấu giành độc lập cho Tổ quốc, nhưng nhất định trào lưu thế giới và tình hình trong nước sẽ biến chuyển thuận tiện cho ta. Cách mạng chưa hoàn thành, phải ráng sức hơn nữa. Nhất định chúng ta sẽ thắng! Toàn dân đoàn kết! Chống Pháp xâm lược! Giữ vững chính quyền! Việc Nam Dân chủ Cộng hoà muôn nǎm! Đông Dương độc lập muôn nǎm! Ban chấp hành Trung ương 1) Gia: tức là Canađa (B.T). 2) c.s: cộng sản (B.T). 3) U.B.V.M: Uỷ ban Việt Minh (B.T). Phần II:Tìm hiểu phân tích chỉ thị”kháng chiến-kiến quốc” Chỉ thị “Kháng chiến –kiến quốc 25-11-1945 (từ mục 1-mục 5) đã nhận định tình hình thế giới và trong nước, những mâu thuẫn trên thế giới nói chung và của nước ta nói riêng.Từ đó Chỉ ra những thuận lợi và những thách thức lớn lao mà đồng bào ta phải đối mặt.Xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng giải phóng dân tộc.Phân tích âm mưu của Đế quốc đối với Đông Dương và xác định kẻ thù chính là Pháp.Xác định nhiệm vụ chính của cách mạng Việt Nam là “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược,bài trừ nội phản”. 1.Hoàn cảnh lịch sử nước ta 1945 1.1)Khó khăn a.Đối ngoại Bản chỉ thị chỉ ra ẳng lực lượng hòa bình trên thế giới đang mạnh hơn lực lượng chiến tranh.Do đó chúng ta có thể tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để dành độc lập và toàn vẹn lảnh thổ.Trên thế giới có bốn mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước đế quốc, giữa vô sản và tư bản, giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thưc dân, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau.Trong đó mâu thuẫn giữa các nước bị áp bức với chủ nghĩa thực dân là lớn nhất.Phong trào đòi độc lập dân chủ của các nước thuộc địa trên thế giới đang mạnh mẽ.Tuy nhiên chính quyền non trẻ của chúng ta chưa được bất kì một quốc gia nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.Chính vì vậy chúng ta không nhận được bất kì sự viện trợ tài chính,trang thiết bị khoa học kỹ thuật,vũ khí. Điều này khẳng định một điều là chúng ta chỉ có thể tự cứu mình bằng chính ngưồn lực từ bên trong, bằng chính sức lực của toàn dân. Hơn nữa chúng ta đang phải đối mặt với mối nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc.Chính quyền non trẻ của chúng ta phải đối mặt với sự bao vây từ bốn phía, thù trong giặc ngoài câu kết nhằm lật đổ chính quyền non trẻ mới được thành lập.Trong tháng 9-1945,hai mươi vạn quân Tưởng tràn vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc.Quân Tưởng vào Việt Nam gồm có bốn sư đoàn,hai sư đoàn Vân Nam và hai sư đoàn Quảng Tây.Quân Tưởng vào nước ta với danh nghĩa giải giáp vũ khí quân Nhật nhưng thực chất là gây rối ren,làm phức tạp thêm tình hình nước ta nhằm lật đổ chính quyền non trẻ.Ngoài quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam còn có lũ phản động Việt quốc, Việt cách với âm mưu phản động và theo gót quân Tàu để kiếm sống.Trong nửa đầu tháng chin,gần hai chục vạn quân Tưởng ở nước ta đã tỏa ra khắp miền Bắc nước ta như một thứ dịch bệnh nguy hiểm.Chúng ngày càng trở nên trơ tráo như một lũ lưu vong mất gốc.Chúng bày ra đủ thứ yêu sách phi lý đòi chúng ta phải chấp nhận.Chúng đòi tiêu tiền quan kim mà từ lâu đã được coi là một mớ giấy lộn,ngoài ra chúng còn đòi kiểm soát trị an trong thành phố. Âm Mưu của quân Tưởng khi tràn vào nước ta là tiêu diệt chính quyền non trẻ của chúng ta,lập nên chế độ phản động là tay chân của chúng ,đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm biến Đông Dương thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam,gần ba vạn quân Anh cũng núp dưới danh nghĩa đồng minh kéo vào nước ta giải giáp vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là để dọn đường giúp quân Pháp quay trỏ lại chiếm đóng Đông Dương một lần nữa.Dưới sự chỉ đạo của tướng Anh Douglas Gracey và trung tá Rivier Anh đã giúp Pháp chiếm được Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ và đang âm mưu tiến ra Bắc.Đêm 22 rạng sang 23/9/1945,ba vạn quân Pháp dựa vào sự che chở của quân Anh và tàn quân Nhật đã nổ sung tiến đánh Sài Gòn. Chúng ta đã phải bỏ mười tỉnh lị phái Nam nhưng tinh thần chiến đấu vẫn rất cao.Nhiều cuộc chiến đấu anh dung của quân ta đã làm nhụt chí quân Pháp, như trận cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Khánh Hội.Ngày 23 đến 24/20/1945 ,nhận được viện trợ quân Pháp đã mở rộng phạm vi tấn công ra các tỉnh miền Tây.Như vậy cùng một lúc chúng ta phải đối mặt với nửa triệu quân của bốn nước Anh,Pháp,Tưởng,Nhật.Tuy nhiên Đảng ta cũng xác định kẻ thù chính là Pháp.Ngoài ra còn có lực lượng phản động bên trong đang lợi dung tình hình rối ren ngóc đầu dạy chống phá nhà nước ta quyết liệt. b.Đối Nội Tình hình đối ngoại phức tạp bao nhiêu thì tình hình đối nội còn khó khăn hơn rất nhiều. Chính quyền vừa mới được thành lập,còn non trẻ mà đã phải đối mặt với một tình thế vô cùng hiểm nghèo,vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc.Đây là liều thuốc thử đầu tiên của chính quyền non trẻ dưới vai trò lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch. Kinh tế: + công nghiệp:đình trệ,sản xuất còn rất sơ khai với vài tram xí nghiệp và chin mươi nghìn công nhân chủ yếu để phục vụ việc bóc lột nhân công rẻ mạt và vơ vét của cải của thực dân Pháp.Các cơ sở chưa được phục hồi hang hóa khan hiếm ,giá cả tang vọt,ngoại thương đình trệ,đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,cơ cực. + nông nghiệp lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề,hơn một nửa ruộng đất bị bỏ hoang không canh tác. Quan hệ ruộng đất mang nặng tính chất phong kiến, thuộc địa. Có tới gần 60% số hộnông dân không có ruộng đất, phải đi làm thuê, cấy rẻ và chịu sự bóc lột của địa chủ, thực dân.Cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp không đáng kể. Hệ thống đê điều được xây dựng trong lịchsử, nhưng hằng năm không được củng cố, bồi bổ đầy đủ, nên cách vài ba năm lại bị vỡ đê lớn. Hệ thống thủy nông chỉ tưới được cho 15% diện tích canh tác, còn lại phải dựa vào nước trời. Hầu hết diện tích chỉ cấy được một vụ lúa với năng suất thấp. Lương thực hằng năm không đủ dùngtrong nước, lại bị quân xâm lược vơ vét, nên số người bị chết đói không năm nào không có, đặcbiệt năm 1945 có tới 2 triệu người. Những vấn đề trên vẫn chưa đc giải quyết triệt để. Tài chính: Tình hình tài chính rất khó khăn,ngân sách trống rỗng,kho bác chỉ có 1.2 triệu,trong đó hơn một nửa là tiền rách, trong khi đó ngân hàng Đông Dương vẫn ở trong tay tư bản Pháp.20/11/1945 quân Tưởng vào nước ta tung tiền Quốc tệ và Quan kim làm tình hình tài chính của chúng ta thêm rối loạn và khó khăn.1 đ Quan kim ăn 1 đ5 Đông Dương.Đông Dương ngân hang vẫn nằm trong tay tư bản Pháp.TRong khi đó tiền Quan kim gần như không có giá trị.Điều này không khác nào cướp không hàng hóa của dân ta,ăn cướp trắng trợn tiền bạc của nhà nước,đẩy nước ta đến bước đường cùng,đã nghèo nay còn nghèo hơn. Văn hóa xã hội:nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 do Nhật Pháp gây ra làm hai triệu người chết đói chưa được khắc phục thì nguy cơ nạn đói mới lại đe dọa nhân dân ta.nạn lụt tháng 8/1945 làm chín tỉnh miền Bắc vỡ đê.Dân ta tiều tụy vì nạn đói vừa kết thúc thì lụt lội lại kéo đến đẩy nhân dân ta đến bước đường cùng, sức lực bị vắt cạn khiến cho nội lực nước nhà suy giảm,tự nuôi than còn chưa xong nói gì đến việc đấu tranh chống ngoại xâm.Nhiệm vụ của Đảng là phải vực dậy tinh thần,sức lực cho dân để lấy lại nguyên khí quốc gia rồi mới có thể tính đến các mục đích khác. Hơn 90% dân mù chữ.Bình quân 1 vạn dân năm 1939 chỉ có 283,5 người đi học, chủ yếu là học sinh vỡ lòng và học sinh tiểu học. Cả Đông Dương chỉ có 3 trường đại học. Năm 1939, cả nước có 26 bệnh viện, 61 nhà hộ sinh, 507 phòng khám bệnh với vài trăm bác sĩ và nhiều hơn một chút y sĩ, nữ hộ sinh, bình quân 1 vạn dân chỉ có 0,23 y, bác sĩ.Điều kiện chăm sóc sức khỏe cho dân quá tồi tệ.90% dân số không biết chữ,những người biết chữ phần lớn là học sinh vỡ lòng và tiểu học.Như vậy việc tuyên truyền vận đồng nhân dân rát khó khăn,láy đâu ra nhân lực để phát triển khoa học kỹ thuật ứng dụng vào thực tế.Không chỉ như vậyk mà tình hình tệ nạn do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề,nhiều tàn dư của thực dân phong kiến còn sót lại gây ảnh hưởng lớn tới thế hệ trẻ sau này. 1.2)Thuận Lợi Nước ta đã được độc lập ,nhân dân ta đã được giải phóng.Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành một nước có chủ quyền. Khí thế cách mạng sôi sục trong cả nước,toàn dân hoàn toàn tin tưởng vào sự lảnh đạo của Đảng,chính quyền và đồng long giữ vững chính quyền non trẻ của chúng ta. Sau chiến tranh thế giói thứ hai vị trí và uy tín của Liên Xô trên trường quốc tế được nâng cao.Như vậy chúng ta có thể tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô trong công cuộc giải phóng dân tộc.Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển và mở rộng trên khắp thế giới và trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình đang vươn lên mạnh mẽ trên khắp thế giới.Lực lượng cách mạng trên toàn thế giói đang tấn công mạnh mẽ chủ nghĩa thực dân, đế quốc tạo điều kiện cho cách mạng ở các quốc gia chưa được độc lập tự giải phóng mình.Sau khi giúp Pháp trở lại Đông Dương nhưng khong thành công tín nhiệm của quân Anh trên trường quốc tế đã giảm đáng kể hơn nữa phong trào đòi quân Anh rút khỏi Đông Dương đang lan rộng khắp nước Anh.Ở trong nước chính quyền nhân dân đã được kiến lập từ Trung ương đến cơ sở.Nhân dân lao động đã làm chủ đất nước,lực lượng vũ trang ngày càng trưởng thành nhân dân tin tưởng vào chính quyền nhân dân và Hồ Chủ Tịch.Có lẽ điều thuận lợi lớn nhất là chún ta có sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Người toàn dân ta đồng long trong mặt trân dân tộc quyết tâm giữ vững chính quyền non trẻ và dành độc lập,toàn vẹn lãnh thổ. Nhất định cách mạng sẽ thành công đất nước ta sẽ hoàn toàn độc lập. 2.Những Đối Sách Của Đảng . 2.1.Chủ trương của Đảng Căn cứ vào những nhận định về tình hình thế giới và trong nước,những khó khăn thuận lợi Đảng ta đã đưa ra những chủ trương ,đường lối để giải quyết vẫn đề,để cứu chính quyền non trẻ. Cuộc đấu tranh của nhân loại cần lao và tiến bộ trên thề giới hiện nay là tranh đấu cho hòa bình,tự do, hạnh phúc . Tính chất của cuộc đấu tranh của nhân dân ta và của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vẫn là tranh đấu đòi hòa bình tự do,hạnh phúc.Các nước thuộc địa vẫn còn trong giai đoạn tranh đấu để đòi quyền tự chủ về tay nhân dân lao động . Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng vì đất nước chưa được thống nhất.Trên đất nước ta vẫn còn bóng quân thù đo đó chúng ta cần tập trung đánh đuổi tất cả các kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Vì là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nên cần phải huy động sức lực của toàn dân,dân ta phải đồng lòng cùng nhau đánh đuổi kẻ thù để nước ta được hoàn toàn thống nhất và toàn vẹn. “Dân tộc trên hết,tổ quốc trên hết”,khẩu hiệu của toàn dân tộc.thiết nghĩ khẩu hiệu này đến bây giờ vẫn còn đúng.khi mà đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và đang trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa. Bất kì ai mang trong mình dòng máu con Lạc cháu Rồng thì phải luôn luôn hướng con tim của mình về quê hương.Dốc hết sức xây dựng tổ quốc ta giàu đẹp hơn,văn minh hơn để sánh vai với bè bạn năm Châu,để thỏa nguyện ham muốn tột cùng của Bác. Kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lực,chúng ta phải tập chung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.Đây là một chủ trương một quyết sách mấu chốt giải nguy cho tổ quốc ta trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc lúc bấy giờ.Việc xác định rõ kẻ thù nào là kẻ thù chính chúng ta sẽ có những quyết sách đúng đắn nhất để đưa con tàu cách mạng vươn xa hơn nữa.Với chủ trương này chúng ta đã loại bỏ được ba kẻ thù ,chỉ phải đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp.Nếu không có chủ trương đúng đắn chúng ta sẽ cùng lúc phải đối phó với một lúc 3 kẻ thù xâm lăng và chắc chắn chúng ta sẽ thua.Do đó việc xác định rõ rang kẻ thù chính để tập trung đối phó sẽ huy động được sức lực của toàn dân.Quân dân một lòng thì không sợ bất kì kẻ thù nào. Sau khi đã xác định được kẻ thù chính rồi chúng ta cần phải thống nhất được lòng dân.Do đó Đảng đã chủ trương thành lập mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm tập hợp sức lưc toàn dân.Đồng thời mở rộng thành phần của mặt trận Việt Minh,lôi kéo các tầng lớp khác như địa chủ phong kiến,công giáo….Chủ trương này của Đảng đã mở chứng tỏ Đảng ta không phân biệt thành phần tôn giáo giai cấp.Khi nước nhà lâm nguy thì hễ ai là người dân Việt Nam đều có thể tham gia làm cách mạng đánh đuổi kẻ thù. g) Phối hợp với Miên,Lào cùng nhau thành lập mặt trận chống thực dân Pháp xâm lược.Chủ trương thể hiện tầm nhìn bao quát của Đảng ta. Một cây làm chẳng nên non ba cây chụm lại nên hòn núi cao,Đảng ta đã biết tận dụng sự giúp đỡ của các nước đồng cảnh ngộ.Việt Nam, LÀo , Miên đều có chung kẻ thù là Pháp vậy tai sao chúng ta không lien kết lại để cùng nhau đánh đuổi kẻ thù này.Một mặt không để cho chúng lợi dung nuwocs này làm bàn đạp giúp chúng đàn áp phong trào cách mạng của nước khác,mặt khác có thể tạo thành ba mũi tán công cùng tấn công một lúc khiến chúng phải chia nhỏ lực lượng để gồng mình đối phó.Như vậy công cuộc kháng chiến của cả ba nước anh em chúng ta đều có lợi. 2.2.Nhiệm vụ Chỉ thị chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng trong nước lúc bấy giờ là phải củng cố chính quyền,bài trừ nội phản,cải thiện đời sống của nhân dân và đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.Muốn đánh đuổi được thực dân Pháp xâm lược trước hết chúng ta phải củng cố chính quyền nhân dân vững mạnh sau đó đến cải thiện đời sống nhân dân.Có như vậy thực lực của chúng ta mới vững mạnh và đủ sức đối chọi với quân Pháp.Việc củng cố chính quyền là sự đấu tranh chống lại những âm mưu của bọ phản động Việt quốc,Việt Cách.Xã hội nước ta lúc này rất khó khăn,90% nhân dân không biết chữ,nạn đói tràn lan.Chính vì vậy mà nhiệm vụ chính để cải thiện đời sống nhân dân là phải “diệt giặc đói,diệt giặc dốt”.về kinh tế chúng ta mở lại các nhà máy do Nhật bỏ lại,khai thác các mỏ,khuyến khích tư nhân góp vốn mở lại các mỏ và nhà máy ấy,tập trung huy động sức lực của toàn dân không phân biệt tầng lớp giai cấp.Khuyến khích tư nhân mở các công ty cổ phần,mở các hợp tác xã.Tu bổ lại đê điều kênh mương phát triển nông nghiệp.Phát hành giấy bạc định lại các nghạch thuế.Như vậy là Đảng và nhà nước đã nhận ra nguồn lực to lớn từ trong dân,kể cả tần g lớp tiểu thương mà trước kia coi là tần g lớp chưa giác ngộ cách mạng thì nay cũng được kêu gọi mang tài sản sức lực ra giúp khôi phực đất nước. *)Trong ba loại giặc mà chúng ta cần diệt có lẽ giặc đói là mối nguy cấp thiết nhất. Dân đói thì lấy ai đánh giặc lấy ai xây dựng đất nước.Chính vì vậy nhiệm vụ cấp bách là phải diệt giặc đói,Chính phủ ta kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức "bữa cháo cầm hơi",v.v. động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn "cứu đói", và các "đội quân trừ giặc đói" để trồng trọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên cho các quỹ cứu tế, tổ chức việc tiếp tế, mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu, v.v *)Diệt giặc đói rồi thì phải nâng cao trình độ nhân dân để có thể xây dựng kiến thiết đất nước và đưa đất nước ngày một đi lên.Muốn vậy chúng ta phải diệt giặc dốt,90% dân ta chưa biết chữ,đó quả là con số khủng khiếp. Về vǎn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động vǎn hoá cứu quốc, kiến thiết nền vǎn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá.Nhận thấy tầm quan trọng của tri thức Đảng ta đã gấp rút mở ngay các lớp bình dân học vụ,kêu gọi người biết chữ rồi dạy cho người chưa biết chữ,học mọi lúc mọi nơi. 2.3.Hành động Chỉ thị đã chỉ rõ rằng Đảng ta cần phải cải tổ lại ngay để có thể lãnh đạo đất nước vượt qua thời kì khó khăn gian khổ này.Đảng ta cần phải mở rộng,tang cường the

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận Đường lối cách mạng.doc
Tài liệu liên quan