MỤC LỤC
Trang
A. Mở đầu. 1
B. Nội dung. 1
I. Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về huy động vốn trong công ty cổ phần. 1
1. Khái quát về công ty cổ phần. 1
1.1. Định nghĩa và đặc điểm về công ty cổ phần. 1
1.2 Ưu và nhược điểm của công ty cổ phần. 5
2. Khái quát vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần. 6
II. Huy động vốn trong công ty cổ phần. 6
1. Khái niệm huy động vốn của công ty cổ phần. 6
2. Phương thức huy động vốn của công ty cổ phần. 6
III. Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần. 7
1.Phát hành cổ phiếu (vốn chủ sở hữu hay vốn tự có). 7
2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng. 11
IV. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật về huy động trong công ty cổ phần. 14
1.Về vốn chủ sở hữu. 14
2. Về vốn tín dụng. 15
V. Thực trạng và biện pháp huy động vốn của công ty cổ phần hiện nay tại Việt Nam. 16
1. Thực trạng huy động vốn trong CTCP hiện nay 16
2. Biện pháp hoàn thiện huy động vốn trong CTCP hiện nay 17
C. Kết luận. 17
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3574 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn đã cam kết. Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán( như cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện khá năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần. Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Công ty cổ phần có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt: Với đặc trưng là loại công ty đối vốn, quyền lực trong công ty sẽ thuộc về ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Vốn trong công ty chính là 1 dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Vốn của công ty là yếu tố năng động nhất: sự phát triển của công ty cổ phần tỉ lệ thuận với sự chí chủ quan của con người. Điều đó đòi hỏi các nhà kinh doanh phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự linh hoạt của vốn, tạo cho bản thân công ty cổ phần khả năng chuyển dịch các phần vốn 1 cách dễ dàng song tư cách pháp nhân không vì sự chuyển dịch đó mà bị thay đổi.. Công ty cổ phần có cơ chế quản lý tập trung cao: Với tư cách là 1 pháp nhân độc lập, trong công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và có chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra hội đồng quản trị và hội đồng quản trị sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty. Như vậy trong công ty cổ phần việc quản lý được tập trung hóa vào hội đồng quản lý mà không dàn trải việc quản lý cho các cổ đông như công ty hợp danh. CTCP phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc). Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát. 1.2 - Ưu và nhược điểm của công ty cổ phần. a. Ưu điểm của công ty cổ phần. So với các loại hình doanh nghi chuyển nhượng cổ phệp khác thì công ty cổ phần có rất nhiều ưu điểm. Cụ thể như sau: * Chế độ trách nhiệm của Công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao; * Khả năng hoạt động của Công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lịch vực, ngành nghề; * Cơ chế điều phối vốn của Công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; * Khả năng huy động vốn của Công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần; Việc chuyển nhượng vốn trong Công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần. b. Nhược điểm của công ty cổ phần. Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình Công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định như. * Việc quản lý và điều hành Công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích; * Việc thành lập và quản lý Công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán. * Vì loại hình công ty cổ phần là loại doanh nghiệp đại chúng, số lượng các cổ đông không hạn chế do đó vị trí Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) Công ty cổ phần rất quan trọng các quyết định của Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) công ty cổ phần ảnh hưởng lớn đến nhiều cổ đông khác và để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động kinh tế của loại hình này nên tại khoản 2 điều 116 Luật doanh nghiệp quy định hạn chế quyền của Giám đốc (Tổng giám đốc) công ty cổ phần : “….Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác... ” 2. Khái quát vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần. Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vốn được xem là nhân tố cơ bản không thể thiếu của tất cả các doanh nghiệp bởi các chủ thể muốn tiến hành hoạt động kinh doanh thì phải có vốn. Công ty cổ phần cũng thế. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn của công ty cổ phần là vấn đề hết sức quan trọng. Vốn của công ty cổ phần có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ, dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn của công ty cổ phần có thể chia thành : Vốn chủ sở hữu ( vốn tự có) và vốn tín dụng( vốn vay). + Vốn của chủ sơ hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty. + Vốn tín dụng: Là nguồn vốn được hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau: Vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu . Điều quan trọng là công ty cổ phần phải có 1 tỉ lệ vốn vay trên vốn cỏ phần hợp lý đẻ phản ánh sưc mạnh tài chính của công ty, vừa tạo niềm ti cho các đối tác của mình. II. Huy động vốn trong công ty cổ phần. 1. Khái niệm huy động vốn của công ty cổ phần. Huy động vốn của công ty cổ phần là hoạt động tạo vốn bằng cách phát hành các loại giấy tờ có giá trị gọi là tài sản tài chính hay các chứng khoán để tài trợ cho nhu cầu vốn đầu tư của công ty. Các tài sản tài chính không chỉ bao gồm các khoản vay nợ ngân hàng mà còn bao gồm cả cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng từ khác 2. Phương thức huy động vốn của công ty cổ phần.
Các chủ thể kinh doanh muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì yếu tố đầu tiên rất quan trọng đó là phải có nguồn vốn lớn. Công ty cổ phần có hai cách để huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay. Theo luật daonh nghiệp năm 2005 thì doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh: “ không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào” ( khoản 3, điều 130 và khoản 2, điều 141), công ty trách nhiệm hữu hạn có thuận lợi hơn nhưng lại “ không được được phát hành cổ phần” ( khoản 3, điều 38). Công ty cổ phần khẳng định sự lý tưởng trong mô hinh kinh doanh của mình bằng quyền phát hành chứng khoán được quy định trong khoản 3 điều 77 Luật doanh nghiệp 2005: “Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”. Trong các loại chứng khoán ấy, cổ phiếu là công cụ riêng của công ty cổ phần, nó đem lại ưu thế rất lớn cho công ty cổ phần nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng: có thể huy động được một nguồn vốn lớn do mở rộng đối tượng huy động; có thể giảm chi phí huy động vốn do tiếp cận trực tiếp với người đầu tư…Như vậy, với quy định trên của pháp luật doanh nghiệp thì cấu trúc vốn của công ty cổ phần sẽ rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người đầu tư.
Phần vốn của cổ đông có thể tự do chuyển nhượng thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ trường hợp do pháp luật quy định) mà biểu hiện hình thức là chuyển nhượng cổ phiếu. Tính chuyển nhượng cổ phiếu mạng lại cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty. Việc chuyển vốn dưới hình thức này rất dễ dàng và thuận lợi thông qua thị trường chứng khoán.
Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyền nhượng đã khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư.
Những đặc điểm cơ bản đó đã góp phần đưa công ty cổ phần trở thành một hình thức tổ chức kinh doanh có khả năng huy động một số lượng vốn lớn ngầm chảy trong các tấng lớp dân cư, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô khổng lồ có thể cọi là lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay.
III.Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần.
1.Phát hành cổ phiếu (vốn chủ sở hữu hay vốn tự có).
a.Khái niệm cổ phần, cổ phiếu:
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Giá trị mỗi cổ phần (mệnh giá cổ phần) do công ty quyết định và ghi vào cổ phiếu. Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần. Giá chào bán cổ phần do hội đồng quản trị của công ty quyết định nhưng không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 Luật doanh nghiệp.
Cổ phần của công ty cổ phần có thể tồn tại dưới hai loại là cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Công ty phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần cổ đông là nền tảng của công ty cổ phần. Cổ phần phổ thông tạo cho người sở hữu những quyền và lợi ích cơ bản khi đầu tư vào công ty cổ phần. Cổ phần phổ thông gắn với quyền bỏ phiếu và được xác lập theo nguyên tắc : “ 1 cổ phần 1 lá phiếu”. Tại khoản 1, điều 78 luật DN năm 2005 có quy định cổ phần phổ thông là loại cổ phần bắt buộc khi thành lập công ty cổ phần. Cổ phần phổ thông có 2 loại là cổ phần phổ thông của cổ đông sang lập và cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông. Khi đầu tư bằng việc mua cổ phần phổ thông, cổ đông phổ thông không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần ( điều 80 luật DN năm 2005). Cổ đông phổ thông phải chịu rủi ro rất cao, họ không được nhận lợi tức nếu công ty làm ăn thua lộ nhưng bù lại thì tính tự do chuyển nhượng, mua bán trên thị trường của loại cổ phần này sẽ đem lại lợi thế trong việc tập trung và huy động vốn rất lớn. Đối với cổ đông sang lập thì việc huy động vốn theo quy định tại điều 84, luật DN năm 2005. Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu mà theo đó người sở hữu nó có quyền nhận thu nhập cố định theo lãi suất nhất định, lợi tức của biến động theo lợi nhuận công ty. Lợi nhuận công ty dù nhiều hay ít thì trước hết phải trích ra để trả lợi tức cố định cho các cổ phiếu ưu đãi, còn lại bao nhiêu mới chia theo cổ phần cho những người có cổ phiếu thông thường . Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết là “cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định” (khoản 1 Điều 81). Theo khoản 3 Điều 71 Luật doanh nghiệp 2005 thì: “Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông”.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức là “cổ phần được trả cổ tức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hang năm” (khoản 1 Điều 82). Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Dưới góc độ này ta thấy cổ phần ưu đãi cổ tức mang đặc tính của một trái khoán. Loại cổ phần này có sức hút đông đảo các nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại là “cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại” (khoản 1 Điều 83). Khả năng rút vốn dễ dàng, linh động khi có nhu cầu là động lực cơ bản thúc đẩy các nhà đầu tư sở hữu loại cổ phần này.
+ Cổ phần ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định.
Cổ phần là căn cứ pháp lý chứng minh tư cách thành viên công ty bất kể họ có tham gia thành lập công ty hay không. Từ cổ phần phát sinh quyền và nghĩa vụ của các thành viên. Những người sở hữu cổ phần cùng một loại thì có các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Luật doanh nghiệp của Việt Nam không quy định mệnh giá tối thiểu của một cổ phiếu nhưng người ta thường phát hành các cổ phiếu có mệnh giá tương đương để dễ dàng so sánh trên thị trường chứng khoán.
Cổ phiếu là giấy tờ có giá trị chứng minh tư cách chủ sở hữu cổ phần và đồng thời là tư cách thành viên công ty của người có cổ phần. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, người ta không dùng giấy tờ ghi chép cổ phiếu mà đưa các thông tin về cổ phiếu vào hệ thống máy tính. Các cổ đông có thể mở tài khoản cổ phiếu tại ngân hàng và được quản lý bằng hệ thống máy tính. Theo Luật doanh nghiệp 2005 thì cổ phiếu có thể là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ. Trong trường hợp là bút toán ghi sổ thì những thông tin về cổ phiếu được ghi trong sổ đăng kí cổ đông của công ty. Sổ đăng ký cổ đông có thể là văn bản hoặc tập dữ liệu điện tử hoặc cả hai.
Cổ phiếu có thể được mua bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác, quy định tại điều lệ công ty và phải được thanh toán đủ một lần.
b.Phát hành cổ phiếu.
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần cùa công ty cổ phần cho người đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty trong trường hợp công ty đang hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện có trong công ty hay có thể dẫn đến thay đổi vị thế, tư cách thành viên của từng cổ đông trong công ty. Do vậy, việc quyết định loại cổ phần, tổng số cổ phần của từng loại được chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần trong số cổ phần được quyền chào bán.
Về giá chào bán cổ phần, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rất chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi cho đa số cổ đông. Ngoài quy định về “giá không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán” như Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 còn bổ sung “hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất” và ngoại trừ các trường hợp sau:
- Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập;
- Cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty;
- Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết;
Điều lệ công ty có thể quy định thêm các trường hợp khác và mức chiết khấu trong các trường hợp đó.
Giá thị trường của cổ phần là giá giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc giá do một tổ chức định giá chuyên nghiệp xác định. Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay, đa số công chúng đều chưa hiểu hết về việc bán đấu giá qua thị trường chứng khoán. Do đó, đối với các công ty cổ phần đã kinh doanh hiệu quả và ổn định nên áp dụng phương pháp bán theo giá cố định để có thể thu hút đầu tư. Giá cố định là giá bình quân được xác định từ kết quả bán đấu giá. Nếu bán theo giá này vẫn đảm bảo được nguyên tắc bán cổ phần theo giá thị trường và không hề có ưu đãi cho các nhà đầu tư.
Người mua cổ phần sẽ đương nhiên trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm cố phần được thanh toán đủ và những thông tin về người mua được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng ký cổ đông. Sau khi cổ phần được bán, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho người mua. Pháp luật ràng buộc trách nhiệm của những người quản lý công ty khi có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của người sở hữu cổ phiếu đó: “Trường hợp có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty phát hành thì quyền và lợi ích của người chủ sở hữu nó không bị ảnh hưởng. Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giảm đốc hoặc Tổng giám đốc công ty phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do những sai sót đó gây ra đối với công ty” (khoản 2 điều 85 Luật doanh nghiệp 2005). Trong trường hợp, công ty có thể bán cổ phần mà không trao đổi cổ phiếu, khi đó các thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng ký cổ đông là đủ để chứng thực quyền sở hữu cổ phần của cổ đông.
Khi thành lập, công ty cổ phần phải huy động vốn góp của các cổ đông. Pháp luật quy định: “ Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán...”(khoản 1, điều 84), “Trong trường hợp các cổ đông sáng lập không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại phải được chào và bán hết trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận kinh doanh”(khoản 4, điều 84). Vì vậy, tối thiểu các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ 20% số cổ phiếu dự tính phát hành, số cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ. Các cổ đông sáng lập phải thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần, loại cổ phần dự kiến chào bán.
Bên cạnh đó, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ trách nhiệm của các cổ đông sáng lập về tính chính xác, trung thực đối với giá trị tài sản góp vốn được giới hạn trong phạm vi các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn kết thúc định giá. Những người cam kết mua cổ phần còn phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty theo đúng quy định tại Khoàn 1 điều 29 Luật doanh nghiệp 2005.
Theo pháp luật Việt Nam, phát hành cổ phiếu có thể thực hiện bằng hai phương thức:
+ Phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành trong đó cổ phiếu có số lượng hạn chế và chỉ bán cho một số người nhất định, thông thường là bán cho những người trong công ty.
+ Phát hành cổ phiếu ra công chúng: là phương thức phát hành trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu phát hành đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và phải dành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ.
Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng là việc tạo hàng hóa để giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung). Phát hành cổ phiếu ra công chúng được chia làm 2 trường hợp: Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán cho công chúng đầu tư. Phát hành thêm cổ phiếu là việc phát hành cổ phiếu bổ sung cho công chúng đầu tư để huy động thêm vốn cho công ty khi công ty làm ăn có lãi, cần mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, thiết bị .
2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng.
a.Phát hành trái phiếu.
Có thể nói rằng cổ phiếu là công cụ huy động vốn hiệu quả và quan trọng chủ sở hữu của công ty cổ phần. Bên cạnh đó, tại khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 có quy định công ty cổ phần có thể sử dụng trái phiếu để vay vốn trung hạn và dài hạn, đáp ứng cho nhu cầu về vốn kinh doanh có lúc vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông. Theo khoản 3 Điều 6 Luật chứng khoán 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Như vậy, khác với cổ phiếu, trái phiếu chỉ xác nhận quyền của người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Quan hệ giữa người sở hữu trái phiếu với công ty là quan hệ giữa chủ nợ với con nợ. Với tư cách là một loại chứng chỉ xác nhận lợi ích tài sản, trái phiếu là phần thứ hai trong cơ cấu vốn của công ty có liên quan đến việc hình thành thi trường chứng khoán.
Trái phiếu của công ty cổ phần phát hành có những đặc điểm sau đây: - Trái phiếu có thời gian đáo hạn. Khi đến thời điểm đáo hạn, người chủ sở hữu trái người chủ sở hữu trái phiếu được hoàn trái. - Người sở hữu trái phiếu không có quyền tham gia biểu quyết các vấn đề của công ty
- Trái phiếu có lợi tức cố định, tiền lãi phải trả cho chủ sở hữu không phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty. Có nghĩa là kết quả sản xuất kinh doanh của công ty không ảnh hưởng đến lợi ích của người sở hữu trái phiếu.
- Trái phiếu đem lại cho người chủ sở hữu quyền ưu tiên về phân chia lợi nhuận cũng như quyền ưu tiên về phân chia tài sản khi công ty giải thể hoặc phá sản.
- Trái phiếu có thể tự do chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán.
b.Tín dụng ngân hàng.
Hiện nay, Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng áp dụng. Bởi lợi thế của vay tín dụng ngân hàng chính là công ty cổ phần có thể có được các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu kịp thời của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong từng giai đoạn, thời gian cụ thể.
Đối với các công ty có uy tín có quan hệ lâu dài với các ngân hàng thì việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng có nhiều thuận lợi. Có thể nhìn nhận một điều đó là cơ chế cho vay tín dụng ngân hàng hiện nay có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức huy động vốn bằng trái phiếu bởi nếu huy động vốn bằng hình thức vay ngân hàng thì khi đến hạn trả công ty chưa có khả năng trả nợ thì vẫn có thể xin gia hạn nợ; trong khi nếu công ty phát hành trái phiếu thì phải có nghĩa vụ hoàn trả các khoản lãi và gốc khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
Tuy nhiên không phải công ty cổ phần nào cũng có thể huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng, để có thể huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng thì công ty phải đáp ứng được các điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản đảm bảo cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng trừ trường hợp công ty được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty vay vốn ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đich đã thỏa thuận, hoàn trả nợ gốc và lãi suất vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
c. Tín dụng thuê mua.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng khó tiếp cận vốn vay ngân hàng. Sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính là một giải pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp. Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi nhận tại Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 với tên gọi là hoạt động thuê mua tài chính. Tuy nhiên, phải đến khi Thông đốc Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định 149/QĐ – NH5 ban hành ngày 27 tháng 5 năm 1995, sau đó là Nghị định 64/1995/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 9 tháng 10 năm 1995 và mới đây là Thông tư 03/TT – NH5 của Ngân hàng Nhà nước ngày 9 tháng 2 năm 1996, thì hoạt động này cho thuê mua tín dụng mới được pháp luật điều chỉnh cụ thể. Sau khi Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi,bổ sung năm 2004) được ban hành, hoạt động cho thuê tài chính ngày càng được điều chỉnh một cách chi tiết và hệ thống.
Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là một dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín dụng cho khách hàng mà chủ yếu là các doanh nghiệp quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện khác hàng phải trả tiền thuê. Tuy nhiên, không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào của tổ chức tín dụng cũng được gọi là thuê tài chính. Xét về mặt bản chất, giao dịch cho thuê tài chính có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng có đối tượng là một tài sản cụ thể. Nếu như với hình thức huy động vốn bằng tín dụng ngân hàng thì ngân hàng sẽ chuyển giao cho công ty cổ phần một khoản tiền, thì trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho công ty- bên thuê một tài sản cụ thể là máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải hoặc động sản khác để công ty thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Đồng thời bên thuê có nghĩa vụ chi trả toàn bộ tiền thuê theo thỏa thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch cho thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối với khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê.
Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của bên cho thuê tín dụng được chuyển giao cho bên thuê tín dụng. Trong hoạt động cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn việc sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng , do đó mà quyền sở hữu của bên cho thuê tín dụng chỉ mang tính “danh nghĩa” đối với tài sản cho thuê, điều này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê tín dụng vi phạm hợp đồng, còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê. Tuy nhiên thì đối với hoạt động cho thuê tài chính thì tất cả những rủi ro và lợi ích sẽ gắn liền với quyền sở hữu tài sản”.
III. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật về huy động trong công ty cổ phần.
1.Về vốn chủ sở hữu.
Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có nhiều điểm tiến bộ, tạo được những điều kiện th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần.doc