Tiểu luận Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh, so sánh với pháp luật nước ngoài

Trách nhiệm liên đới giữa các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thể hiện ở chỗ khi một thành viên hợp danh thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản nợ của công ty thì thành viên này đã làm cho tất cả các thành viên hợp danh khác trong công ty được giải thoát khỏi món nợ đó đối với chủ nợ. Và quyền đòi nợ của chủ nợ chấm dứt với một thành viên thì cũng chấm dứt với công ty và với tất cả các thành viên hợp danh còn lại trong công ty. Thành viên hợp danh đã trả nợ sẽ có quyền đòi các thành viên còn lại thanh toán phần nợ của họ trong món nợ đó.

Chịu trách nhiệm vô hạn có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. “Thành viên hợp danh có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải hết số nợ của công ty” (điểm đ khoản 2 điều 134). “Chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty hoặc theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty trong trường hợp công ty kinh doanh bị lỗ” ( điểm e khoản 2 điều 134).

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5975 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu pháp luật về trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh và thành viên công ty hợp danh, so sánh với pháp luật nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn là mô hình phù hợp với sự mềm dẻo, năng động của các hoạt đông kinh tế và tính khốc liệt của các hoạt động cạnh tranh. Công ty hợp danh đã “ hạn chế” được nguy cơ rủi ro cao của chế độ trách nhiệm vô hạn mà 1 người phải tự ghánh chịu bằng cách phân tán, chia sẻ rủi ro cho nhiều người. Tóm lại, sự hình thành và phát triển công ty hợp danh có những đặc trưng riêng. Có thể khẳng định rằng công ty hợp danh là sản phẩm do các thương gia tạo lập, thực tiễn khách quan đã minh chứng rằng, sự ra đời của loại hình công ty này là phù hợp, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhà nước đã qui định sự tồn tại của công ty hợp danh bằng các qui chế pháp lý điều chỉnh riêng và ngày một hoàn thiện. Công ty hợp danh là một dạng của công ty đối nhân là một loại hình doanh nghiệp phổ biến ra đời sớm so với các loại hình công ty khác ở các nước có loại hình kinh tế thị trường phát triển, nhưng đối với Việt Nam vấn đề này có thể đã tồn tại trong thực tế nhưng lại hoàn toàn mới mẻ đối với khoa học pháp lý. B. Nội dung I. Khái niệm và đặc điểm về công ty hợp danh Trên thế giới công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên ( đều là cá nhân và là thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại ( theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung ( hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Thì theo pháp luật Việt Nam đã định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của nó, theo đó đã gộp chung hai loại hình công ty hợp danh như trên thế giới phân loại là: công ty hợp danh thông thường và công ty hợp danh hữu hạn, thành một tên gọi duy nhất là “ công ty hợp danh”. Việc luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa công ty hợp danh là doanh nghiệp “ phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung ( sau đây gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn” (điều 130 luật doanh nghiệp 2005). Tức là gộp chung hai hình thức công ty hợp danh dưới một tên chung và một quy chế pháp luật chung. Có thể thấy khái niệm công ti hợp danh theo luật doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàm của khái niệm công ti đối nhân theo pháp luật các nước. Với qui định về công ti hợp danh, luật doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ti đối nhân ở Việt Nam. Đặc điểm pháp lý cơ bản của công ty hợp danh: - Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ti cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung ( gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viêm góp vốn. - Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ti. - Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khỏan nợ của công ti trong phạm vi số vốn đã góp vào công ti. - Công ti hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. - Trong quá trình hoạt độnh công ti hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào. II.Trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh Là một loại hình công ty đối nhân, do vậy công ty hợp danh có đầy đủ đặc tính của loại hình công ty này. Ngoài một đặc điểm quan trọng là sự liên kết dựa trên cơ sở độ tin cậy về nhân thân của các cá nhân tham gia và sự góp vốn chỉ là thứ yếu thì chính đặc điểm không có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản cá nhân của các thành viên đã xác lập trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh là vô hạn đối với các khoản nợ của công ty. Luật doanh nghiệp 2005 đã công nhận công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Đây là một điểm mới so với luật doanh nghiệp 1999, giúp cho công ty hợp danh có địa vị và tư cách pháp lý nhất định khi tham gia vào môi trường kinh doanh và bình đẳng với các loại hình doang nghiệp khác. Luật doanh nghiệp năm 2005 tại khoản 1 điều 132 có qui định về việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn của thành viên thành tài sản của công ty để khẳng định tính độc lập về tài sản của công ty hợp danh với các thành viên tạo ra nó. Tuy nhiên, luật doanh nghiệp lại đồng thời qui định chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ của công ty. Chế độ này được hiểu là thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Cụ thể hơn, đối với những khoản nợ của công ty, thành viên hợp danh có nghĩa vụ chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty. Như vậy, thành viên hợp danh sẽ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, không kể là tài sản đã chuyển quyền sở hữu cho công ty hay tài sản của cá nhân không đưa vào tài sản công ty.( tr49. Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh theo qui định của pháp luật VN hiện hành- Nguyễn Thái Trường) Luật doanh nghiệp Việt Nam chia chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên thành hai loại đó là chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp danh và chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Theo đó, thành viên hợp danh trong công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty, còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty. Có thể thấy rằng, trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh có tính ràng buộc chặt chẽ trong mọi quan hệ. Bên thứ ba khi giao dịch với công ty không những được đảm bảo bằng tài sản riêng của công ty mà mà còn được đảm bảo bằng tài sản riêng của mỗi thành viên. Mặt khác, khi các thành viên hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty thì đương nhiên họ có quyền bình đẳng trong việc điều hành công ty và quyền đại diện công ty. Do vậy, sự liên kết trong công ty hợp danh phải dựa trên sự tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, sự góp vốn chỉ là yếu tố thứ yếu. Chính nhu cầu xác lập chế độ chịu trách nhiệm vô hạn cho các thành viên hợp danh của công ty hợp danh và tính chất của sự liên kết giữa các thành viên này đã không cho phép thực hiện nguyên tắc tách bạch tài sản giữa công ty và các thành viên hợp danh của công ty. Pháp luật các nước hầu hết đều thừa nhận công ty hợp danh là một chủ thể kinh doanh song đều quy định loại hình công ty này không có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa là các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty không chỉ bằng tài sản góp vào công ty mà còn bằng tài sản riêng của chính mình. Có thể hiểu rằng, công ty hợp danh vừa là chủ thể pháp luật nhưng cũng không hoàn toàn là chủ thể pháp luật độc lập mà luôn nằm trong mối quan hệ liên đới giữa công ty và các thành viên với nhau. Nói cách khác, chế độ trách nhiệm của công ty hợp danh là chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của các thành viên trong công ty về các khoản nợ của công ty trong điều kiện công ty không có tài sản riêng tách bạch với tài sản của các thành viên để thực hiện các khoản nợ của chính mình. III. Chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên của công ty hợp danh 1. Chế độ chịu trách nhiệm đối với các thành viên hợp danh Thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản trong công ty hợp danh, là điều kiện cần thiết và tiên quyết cho sự ra đời của công ty hợp danh. Đối với Việt Nam, muốn thành lập công ty hợp danh phải có ít nhất là 2 thành viên hợp danh. Thành viên hợp danh phải là cá nhân. Điểm b khoản 1 điều 130 luật doanh nghiệp 2005 qui định “ thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty”. Như vậy, với yếu tố là tính chất cơ bản, quyết định sự tồn tại của công ty hợp danh, chế đô trách nhiệm cá nhân của các thành viên công ty được xác lập ở các nội dung sau: Thứ nhất, chế độ trách nhiệm của các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh là trực tiếp. Các thành viên hợp danh của công ty đều phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ của công ty do đó các chủ nợ có quyền yêu cầu trực tiếp bất kì thành viên nào của công ty thanh toán các khỏan nợ của công ti với chủ nợ. Mặt khác, các thành viên hợp danh phải bằng toàn bộ tài sản của mình ( tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ti. Trách nhiệm liên đới ở đây được hiểu là trách nhiệm liên đới giữa các thành viên hợp danh với nhau. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là các thành viên hợp danh có bị trách nhiệm liên đới với công ty hay nói cách khác, các chủ nợ có quyền kiện đòi nợ đối với các thành viên hợp danh mà không cần kiện công ty hợp danh trước hay không. Ở một số nước quy định chủ nợ không nhất thiết phải kiện công ty trước khi kiện thành viên. Khi thực hiện quyền yêu cầu của mình chủ nợ có quyền lựa chọn xem xét trước hết mình cần kiện công ty hay kiện một hoặc nhiều thành viên hợp danh của công ty. Nếu chủ nợ muốn thỏa mãn bằng tài sản của công ty thì chủ nợ có phải kiện công ty hợp danh, ngược lại, chủ nợ phải kiện riêng thành viên hợp danh của công ty nếu chủ nợ muốn được trả nợ bằng tài sản riêng của thành viên. Trách nhiệm liên đới giữa các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thể hiện ở chỗ khi một thành viên hợp danh thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản nợ của công ty thì thành viên này đã làm cho tất cả các thành viên hợp danh khác trong công ty được giải thoát khỏi món nợ đó đối với chủ nợ. Và quyền đòi nợ của chủ nợ chấm dứt với một thành viên thì cũng chấm dứt với công ty và với tất cả các thành viên hợp danh còn lại trong công ty. Thành viên hợp danh đã trả nợ sẽ có quyền đòi các thành viên còn lại thanh toán phần nợ của họ trong món nợ đó. Chịu trách nhiệm vô hạn có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. “Thành viên hợp danh có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải hết số nợ của công ty” (điểm đ khoản 2 điều 134). “Chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty hoặc theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty trong trường hợp công ty kinh doanh bị lỗ” ( điểm e khoản 2 điều 134). Như vậy, thành viên hợp danh này đã được thế quyền của chủ nợ với tất cả các đặc quyền, nói cách khác thành viên đã trả nợ cho chủ nợ được hưởng đủ các bảo đảm đặc biệt của món nợ, nếu có, y như chủ nợ. Thứ hai, trách nhiệm của các thành viên hợp danh không chỉ hạn chế trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Khác với các loại hình công ty đối vốn, các thành viên của công ty này chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn góp vào công ty, ngược lại đối với công ty hợp danh, các thành viên hợp danh không chỉ phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ bằng tài sản đã góp vào công ty, trong trường hợp tài sản của công ty không đủ thực hiện các nghĩa vụ đối với chủ nợ, thì các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Đây là một đặc trưng cơ bản của loại hình công ty đối nhân nói chung và công ty hợp danh nói riêng. Đặc trưng này cũng là một sự đảm bảo tuyệt đối với bên thứ ba tham gia tham gia giao dịch với công ty. Ở một số nước, chính yếu tố này là một đảm bảo của công ty đối với các ngân hàng.( 2, tr25) Mặt khác, do tính chất chịu trách nhiệm vô hạn, nên pháp luật các nước hầu hết rất ít quy định bắt buộc đối với loại hình công ty này. Các thành viên hợp danh có thể tự tổ chức ra cơ chế điều hành hoạt động công ty, họ không nhất thiết phải có điều lệ hoạt động, pháp luật các nước nếu có quy định vốn tối thiểu với một số loại công ty thì thường không quy định mức vốn tối thiểu đối với loại hình công ty này. Thứ ba, thành viên hợp danh mới được tiếp nhận vào công ty chỉ chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty khi đi đăng kí việc gia nhập với cơ quan đăng kí kinh doanh. Như vậy, những cam kết của công ty trước khi thành viên gia nhập không làm nảy sinh trách nhiệm của thành viên này, vì các cam kết trước đó thành viên này không tham gia. Tuy vậy, về mặt nguyên tắc thành viên hợp danh có trách nhiệm, vì do sự gia nhập của mình, thành viên hợp danh phải có trách nhiệm, vì do sự gia nhập của mình, thành viên đó đã xác nhận những hành vi của công ty đã làm từ trước đây. Song về mặt thực tế khi giao dịch với công ty hợp danh trước khi có thành viên hợp danh mới gia nhập, bên thứ ba chỉ nhằm vào trách nhiệm của các thành viên hợp danh hiện hữu, do vậy, thành viên hợp danh mới gia nhập không phải chịu trách nhiệm với các cam kết trước khi thành viên này gia nhập vào công ty. Thứ tư, nếu thành viên hợp danh rút khỏi công ty thì về nguyên tắc thành viên này phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ đã có trước khi ra khỏi công ty. Trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh còn ràng buộc thành viên hợp danh ngay cả khi thành viên đó đã chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của công ty hợp danh: “trong thời hạn 2 năm kể từ ngày chấm dứt tư cách thành viên của thành viên hợp danh theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 điều này thì người đó vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên”(khoản 5 điều 138). Trong quá trình hoạt động, khi thành viên hợp danh rút khỏi công ty hoặc bị khai trừ ra khỏi công ty thì thành viên này vẫn phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty hợp danh phát sinh từ những cam kết của công ty trước khi thành viên đó rút khỏi công ty hoặc bị khai trừ khỏi công ty. Công ty hợp danh thường chỉ có một số vốn nhỏ, uy tín của công ty thường dựa vào uy tín cá nhân của các thành viên hợp danh, thêm vào đó bên thứ ba khi giao dịch với công ty thường đặt tín nhiệm nhiều vào cá nhân các thành viên hợp danh do vậy về những khoản nợ xuất phát trong khi còn là thành viên hợp danh của công ty, thành viên hợp danh cần phải chịu trách nhiệm cho dù thành viên này đã rút khỏi công ty, chuyển tư cách thành viên cho người khác hoặc bị khai trừ khỏi công ty hợp danh.( 2,tr.27) 2. Chế độ chịu trách nhiệm của các thành viên góp vốn. Ngoài chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới của các thành viên hợp danh, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, trong công ty hợp danh còn tồn tại chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên góp vốn. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận loại thành viên này trong công ty hợp danh, đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai hình thức công ty hợp danh đó là hợp danh thông thường ( chỉ có các thành viên hợp danh) và hợp danh hữu hạn ( có sự xuất hiện của thành viên góp vốn). Tại điểm a khoản 2 điều 140 luật doanh nghiệp 2005 quy định thành viên góp vốn “ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”. Các thành viên góp vốn trong công ty hợp danh dù góp vốn bằng tiền mặt hay hiện vật, dù góp cả một lúc hay góp dần thì các thành viên này cũng chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn mà họ đã góp. Một khi đã góp đủ phần vốn góp thì các thành viên góp vốn hết trách nhiệm, điều này có nghĩa các chủ nợ không có quyền kiện đòi nợ đối với các thành viên góp vốn, các thành viên này cũng không phải chịu trách nhiệm gì đối với chủ nợ ngay cả khi những người quản lý công ty tiêu tán mất phần vốn của họ. IV. So sánh công ty hợp danh ở nước Pháp với công ty hợp danh ở Việt Nam 1. Sự giống nhau công ty hợp danh ở pháp với công ty hợp danh ở Việt Nam Công ty hợp danh ở nước Việt Nam ra đời khá muộn so với nhiều nước trên thế giới. Sự ra đời ở đây được đánh dấu bằng việc ghi nhận chính thức công ty hợp danh trong văn bản pháp luật của nhà nước, khi đó công ty hợp danh mới thực sự là một chủ thể kinh doanh được xã hội chấp nhận và được các nhà kinh doanh lựa chọn. Mầm mống của công ty hợp danh cùng những đặc điểm của nó đã xuất hiện ngay từ thời kì đất nước bị đô hộ bởi thực dân pháp. Dưới thời kì pháp thuộc, pháp đã từng áp dụng luật thương mại của pháp vào Việt nam, theo đó, thừa nhận mọi hình thức công ty bao gồm cả công ty hợp danh. Như vậy, hình thức công ty hợp danh ở Việt Nam có phần giống với công ty hợp danh của pháp. Chế độ chịu trách nhiệm của thành viên hợp danh ở pháp và ở Việt Nam là đều chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Bên cạnh đó công ti hợp danh ở Pháp và Việt Nam đều có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. 2. Sự khác nhau giữa công ty hợp danh Pháp với công ty hợp danh ở Việt Nam Nước pháp là một nước điển hình theo hệ thống luật Châu Âu lục địa, pháp luật thương mại của pháp qui định về công ty hợp danh như sau: “ Công ty hợp danh là công ty mà trong đó các thành viên đều có tư cách thương gia chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khỏan nợ của công ty”. Như vậy, từ khái niệm trên có thể thấy được đặc điểm pháp lý chủ yếu của công ty hợp danh theo pháp luật Pháp là tính chịu trách nhiệm cá nhân, không xác định và liên đới của tất cả các thành viên trong công ty, những người có đầy đủ tư cách thương gia, trong những khoản nợ đối với bên thứ ba. Nếu như công ty hợp danh ở Việt Nam bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn, chế độ chịu trách nhiệm của 2 thành viên này là hoàn toàn khác nhau, các thành viên hợp danh của công ty đều phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ của công ty còn thành viên góp vốn thì chỉ phải chịu trong phạm vi số vốn đã cam kết góp, trong khi đó các thành viên của công ty hợp danh ở Pháp đều phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới. Mặc dù công ty hợp danh có tài sản nhưng trong trường hợp công ty không trả được nợ cho các chủ nợ thì chủ nợ có quyền yêu cầu bất kỳ thành viên nào thanh toán toàn bộ khoản nợ của họ. Ngoài ra, công ty hợp danh tại Pháp còn có một số đặc điểm khác công ty hợp danh ở Việt Nam như là một loại hình công ty thương mại, công ty hợp danh tại Pháp có tư cách pháp nhân, phải có 2 thành viên trở lên, các thành viên phải có tư cách thương gia, được thành lập dựa trên yếu tố nhân thân ( ínstuitus personae…) là một loại hình công ty đối nhân nên yếu tố nhân thân ( instuitus personae…) đối với loại hình công ty này đóng vai trò quyết định, theo đó yếu tố nhân thân của mỗi thành viên quyết định tới việc thành lập, hoạt động và giải tán công ty, về nguyên tắc một thành viên của công ty hợp danh khó có thể rút khỏi công ty sau khi đã chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho bên thứ ba mà không được sự nhất trí của tất cả các thành viên còn lại đối với việc chuyển nhượng này. Bên cạnh đó, thành viên hợp danh theo pháp luật thương mại Pháp không hạn chế là cá nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân. Từ đó có thể hình thành mô hình kinh doanh kết hợp, cho phép tránh được trách nhiệm vô hạn của cá nhân thành viên mà vẫn có thể khai thác được những điểm mạnh của công ty hợp danh. Đây cũng là một điểm khác so với thành viên hợp danh ở Việt Nam. Ví dụ: một công ty hợp danh có tất cả các thành viên hợp danh là pháp nhân song thực ra, việc điều hành công ty do các cá nhân là người đứng đầu pháp nhân thành viên thực hiện. Việc một thành viên của công ty hợp danh chết cũng có thể là lý do dẫn tới việc giải thể công ty, những người thừa kế của thành viên này không thẻ trở thành thành viên của công ty thay thế cho vị trí của thành viên đã chết. Theo qui định của pháp luật pháp, các thành viên của công ty hợp danh phải có tư cách thương gia, điều này có ý nghĩa quan trọng đến chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn và tính chất nghề nghiệp liên quan đến nhau tạo nên uy tín của công ty hợp danh. Theo qui định của luật ngày 24/7/1965 công ty hợp danh của pháp có tư cách pháp nhân. Về quản lý điều hành công ty hợp danh, pháp luật của pháp qui định rất cụ thể về vấn đề này. Theo đó, công ty hợp danh được quản lý bởi một hay nhiều người. Người quản lý có thể là thành viên của công ty hoặc là người ngoài không phải là thành viên công ty. Hơn nữa, pháp luật pháp không cấm việc người quản lý công ty hợp danh có thể là một hay nhiều pháp nhân. Trong trường hợp này, những người quản lý công ty hợp danh về trách nhiệm dân sự cũng như trách nhiệm hình sự của người quản lý công ty hợp danh. Tuy vậy, những người quản lý này không phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới về các khoản nợ của công ty vì họ không phải là thành viên của công ty. Việc chỉ định người quản lý được ghi nhận trong thỏa thuận thành lập công ty. Công ty hợp danh là loại hình công ty xuất hiện đầu tiên và dù sớm hay muộn nó cũng được pháp luật các nước ghi nhận và điều chỉnh. Nhưng sự điều chỉnh đó của pháp luật mỗi nước là không giống nhau, điều đó là do sự phát triển kinh tế, chính tị, xã hội cũng như phong tục tập quán ở mỗi nước là khác nhau. Đối với pháp luật Việt Nam, luật doanh nghiệp đã định nghĩa công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm cơ bản của công ty hợp danh. Theo khoản 1 điều 130 luật doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: a, Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Theo đó, pháp luật Việt Nam thừa nhận công ty hợp danh dưới cả 2 hình thức là “ hợp danh tuyệt đối” ( là ngoài thành viên hợp danh thì còn có cả thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình) Còn theo luật thương mại pháp thì luật thương mại pháp không xếp công ty hợp danh vào cùng nhóm với công ty hợp vốn đơn giản. Như vậy, theo luật thương mại pháp có thể nói công ty hợp danh vẫn giữ nguyên được bản chất của công ty đối nhân và bản chất đối nhân này tạo ra chế độ trách nhiệm vô hạn hoàn toàn, không có ngoại lệ đối với bất cứ thành viên nào của công ty. Đây là điểm phân biệt chủ yếu giữa loại hình công ty này với công ty hợp danh ở Việt Nam mà thành viên có chịu chế độ TNHH trong phạm vi vốn mình góp. Có thể thấy rằng các qui định của pháp luật pháp về công ty hợp danh rất chặt chẽ và cụ thể, tạo môi trường pháp lý an toàn cho sự hoạt động của loại hình công ty này. Chính vì vậy mô hình công ty hợp danh ở Pháp vẫn phát triển khá phổ biến, hơn hẳn hình thức công ty hợp danh ở Việt Nam. V. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam Từ việc so sánh với pháp luật thương mại Pháp có thể thấy rằng bên cạnh những điểm đạt được về việc qui định hình thức công ty hợp danh ở Việt Nam thì vẫn còn nhiều điểm còn hạn chế, cần phải sửa đổi, bổ sung. Thứ nhất, Cần phải phân loại rõ ràng 2 hình thức công ty hợp danh và qui dịnh cụ thể số lượng thành viên tối thiểu tương ứng với cách thức đó. Rõ ràng, việc cộng gộp 2 hình thức công ty hợp danh dưới 1 tên gọi chung và được điều chỉnh với 1 qui chế chung như luật doanh nghiệp VIệt Nam đã tạo nên nhiều bất cập trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật vào đời sống thực tế. Cần phải có sự nhận thức rõ ràng 2 hình thức công ty hợp danh: công ty hợp danh thông thường và công ty hợp danh hữu hạn. Tuy đều mang những nét chung của loại hình công ty đối nhân nhưng chúng có sự khác biệt và cần phải có sự phân loại rõ ràng cũng như có những qui chế điều chỉnh riêng biệt. Pháp luật Việt Nam qui định cụ thể số lượng thành viên tối thiểu ở mỗi loại công ty hợp danh, nhằm tạo ra sự thuận lợi trong việc áp dụng điều kiện giải thể doanh nghiệp qui định tại điều 157 luật doanh nghiệp 2005 cụ thể: - Đối với loại hình công ty hợp danh thông thường phải có tối thiểu ít nhất 2 thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. - Đối với loại hình công ty hợp danh hữu hạn thì phải có ít nhất 2 thành viên hợp danh và 1 thành viên góp vốn. Thứ hai, qui định pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh Việc luật doanh nghiệp 2005 không cho phép pháp nhân trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh đã hạn chế quyền tự do kinh doanh của các thương nhân khi lựa chọn loại kinh doanh. Pháp luật Việt Nam đã thừa nhận loại thương nhân là pháp nhân thì không có lý gì lại không cho phép pháp nhân được trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Việc cho phép pháp nhân là thành viên hợp danh cũng không ảnh hưởng đến bản chất đối nhân của công ty hợp danh, bởi pháp nhân cũng có những dặcđiểm “ nhân thân” nhất định của nó, đó là trụ sở, con dấu, quốc tịch…mà các thành viên hợp danh khác hoàn toàn có thể tìm hiểu và có sự tin cậy. Thứ ba, Sửa đổi pháp luật tạo ra sự nhất quán trong việc qui định giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn. Luật doanh nghiệp năm 2005 có sự mâu thuẫn giữa điểm a khoản 2 điều 140 và điểm c khoản 1 điều 130 qui định về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn. Thực tiễn áp dụng xảy ra việc nên qui định thành viên góp vốn sẽ chịu trách nhiêm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp hay số vốn cam kết góp. Bằng cách xem xét thêm qui định tại khoản 3 điều 131 luật doanh nghiệp đó là: “ trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn, số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty”. Như vậy, dựa tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChế độ chịu trách nhiệm của công ty và thành viên của công ty hợp danh.doc
Tài liệu liên quan