Tiểu luận Tìm hiểu sự vận dụng quy luật qua hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Mục lục

 

Chương 1 3

1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. 3

1.1. Phương thức sản xuất : 3

1.2. Lực lượng sản xuất (LLSX). 3

1.3- Quan hệ sản xuất : (QHSX). 5

2. Biện chứng giữa các yếu tố của phát triển sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất . 8

Chương 2 11

1. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta : 11

2. Đặc điểm của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 11

3. Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất của Đảng ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 12

Kết luận 26

Tài liệu tham khảo 27

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2772 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu sự vận dụng quy luật qua hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t định và chi phối việc tổ chức quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra. Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất : Sở hữu tư liệu và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân, tư hữu : tư liệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít đó, dẫn đến các quan hệ xã hội trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt . (Chủ nghĩa Tư bản là đỉnh cao của loại sở hữu này). Ngược lại, sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc ề mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Trên cơ sởđó về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản xuất. Quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. C.Mác và P.Ănghen đã chứng minh rằng chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là hình thức sở hữu cuối cùng mà chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu. Quan hệ quản lý sản xuất và tổ chức có khả năng quyết định một cách trực tiết quy mô, tốc đô, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thóng trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống . Quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Ngược lại thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh các quan hệ trên, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Nó có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của các quá trình kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất nhưng trong trường hợp ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội. 2. Biện chứng giữa các yếu tố của phát triển sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất . Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau để hình thành nên phương thức sản xuất . Trong mối quan hệ đó, lực lượng sản xuất là yếu tố động, là nội dụng quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức biểu hiện và có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng. quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở : Trình độ của công cụ lao động. Trình độ tổ chức lao động xã hội. luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở : Trình độ của công cụ lao động. Trình độ tổ chức lao động xã hội. Trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất. Trình độ phân công lao động. Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người Trình độ lực lượng sản xuất quy định các hìnhtwhcs tổ chức sản xuất như phân công lao động, hợp tác lao động, tập trung sản xuất… đòi hỏi những hình thức sở hữu, quản lý, phân phối phù hợp. Điều này có nghĩa là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy. Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất còn có khái niệm tính chất của lực lượng sản xuất. Chính P.Ănghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Khi sản xuất ở trình độ sử dụng các công cụ thủ công thì lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân là chủ yếu. Còn khi nền sản xuất được thực hiện với các máy móc hiện đại thì sẽ mang tính chuyên môn hoá, có sự hợp tác rộng rãi. Tuy nhiên trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất sẽ có tác dụng “mở đường làm cho lực lượng sản xuất phát triển . VD : Nhờ có quan hệ hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 1960 - 1970 mà nhiều công trình thuỷ lợi và hệ thống đường giao thông trên đồng ruộng được hình thành . Quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. VD :cơ chế phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp trong những năm trước đổi mới đã hạn chế nhiều tới sự năng động, sáng tạo của người lao động và thủ tiêu động lực phát triển sản xuất kinh doanh. Quan hệ sản xuất nhất thiết phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một quy luật khách quan vận động trong phương thức sản xuất. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố thường xuyên biến đổi vì khoa học kỹ thuật biến đổi không ngừng, còn quan hệ sản xuất thường biến đổi chậm hơn, trở nên lạc hậu so với lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển, khi đó sẽ xảy ra một cuộc cách mạng, xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ xác lập quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn và một phương thức sản xuất mới ra đời. Điều này là một quy luật. Nhờ sự vận động của quy luật này mà loài người đã chuyển từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác. và Lịch sử loài người đã phát triển qua 5 phương thức sản xuất là : phương thức sản xuất công xã nguyên thuỷ, phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang quá đố xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa). Chương 2 Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất của đảng ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 1. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta : Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được chân lý đó. Ngay từ ngày thanh lập (3/2/1930), Đảng ta đã xác định : Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được xác định rõ trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” được đại hộic VII của Đảng thông qua. Đó là một xã hội có 6 đặc trưng sau: Do nhân dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đa bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện và cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 2. Đặc điểm của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngay từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khỉ rõ : Đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặ điểm này đã được Đại họi Đảng toan quốc lần thứ III (1960) lấy làm cơ sở xây dựng đường lối chung của miền Bắc trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975), đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV của Đảng (1976A) khi phân tích những đặc điểm lớn của nước ta đã nêu “… nhìn chung cả nước, tuy ở mặt này, mặt kia, đã xuất hiện những yếu tố của sản xuất lớn, song sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến. Tính chất sản xuất nhỏ thể hiện rõ nết trên mấy mặt chính sau đây : Cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yêu; tuyệt đại bộ phận lao động là thủ công ; năng suất lao động xã hội rất thấp; phân công lao động chưa phát triển ; công nghiệp lớn, nhất là công nghiệp nặng còn ít và rời rạc, chưa đủ sức cải tạo kỹ thuật đối với các ngành kinh tế quốc dân; phần lớn hàng tiêu dùng còn do thủ công nghiệp sản xuất ; công nghiệp và nông nghiệp chưa kết hợp chủ yếu vẫn là trồng lúa; ít có những vùng chuyên canh lớn về cây công nghiệp ; trình độ thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá và nói chung trình độ thâm canh còn thấp ; chăn nuôi pts kém, chưa cân đối với trồng trọt” . Từ phân tích trên, Đảng ta kết luận : “… Nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một nền xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Đây là đặc điểm lớn nhất nói lên thực chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và quy định nội dung chủ yếu của quá trình đó” 3. Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất của Đảng ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.1. Đảng đề ra và không ngừng hoàn thiện đường lối công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) để phát triển nhanh, mạnh lực lượng sản xuất của đất nước. 3.1.1. Đảng đã chỉ rõ sự cần thiết tất yếu phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ mục tiêu xã hội chủ nghĩa - “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh:, với 6 đặc trưng đã nêu, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật chủ nghĩa xã hội - một nền sản xuất lớn, hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa học - công nghệ hiện đại, được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ; xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nước ta khi bước vào thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta mới tạo ra nền sản xuất bằng máy móc,tạo ra được sức sản xuất mới - cơ sở để tăng năng suất lao động ; tạo ra cơ sở và điều kiện vật chất cho nên kinh tế độc lập, tự chủ, có khả năng tham gia phân công, hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế ; chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta mới có điều kiện để tăng cường vai trò kinhtế của Nhà nước, tạo tiền đề liên minh vững chắc giữa công nhân - nông dân - trí thức, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, hình thành các trung tâm công nghiệp, các đô thị mới, xoá dần sự áh biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện để con người phát triển tự do và toàn diện ; chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta mới tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc tăng cường an ninh, quốc phòng, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ ý nghĩa tầm quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá như trên, Đảng ta xác định : “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” ở nước ta. 3.1.2. Đường lối công nghiệp hoá được vạch ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, được phát triển và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội tiếp theo. Đại hội III. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc. Theo đó, chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là “… Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối, hiện đại kết hợp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của ĐL ĐViệt Nam - BCH TW Đảng lao động Việt Nam, NXB 9/1960, trang 182-183. . Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV họp 12/1976. Sau khi nước nàh thống nhất, đã đề ra đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế trong giai đoạn cách mạng mới của nước ta, trong đó vấn đề công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được xác định : “Đẩy mạnh công nghiệp hoá chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp” . Như vậy, đến đại hội IV của Đảng, đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có sự điều chỉnh sát hơn, hợp lý hơn. Công nghiệp nặng vẫn được “Ưu tiên phát triển một cách hợp lý” nhưng “trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ chứ không phải “đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp, và công nghiệp nhẹ” như Đại hội III đã xác định. Sự điều chỉnh này phù hợp với đặc điểm nước ta khi đó. Đại hội V (1982) : Đảng ta đã cụ thể hoá đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho chặng đường trước mắt và chỉ rõ : “Trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80, cần tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đó là nội dung chính của công nghiệp hoá trong chặng đường trước mắt”. Như thế, Đại hội V đã chỉ rõ quan điểm và nội dung công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo đó, sự phát triển công nghiệp nặng phải có mức độ phù hợp với điều kiện và khả năng, nhằm phục vụ thiết thực và có hiệu quả cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng để tạo ra khối lượng sản phẩm đủ đáp ứng nhu cầu xã hội và có tích luỹ. Tính đúng đắn của đường lối đó ở chỗ không phát triển công nghiệp nặng tràn lan mà tập trung sức lực phát triển có trọng tâm, trọng điểm, phục vụ cho sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của xã hội sau chiến tranh, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta lúc đó. Đại hội VI (1986) : Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã khẳng định những thành tựu đạt được, nêu rõ những mặt yếu kèm trong quá trình thự hiện nghị quyết Đại hội V như : “… chưa kiên quyết khắc phục tư tưởg nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế” Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-NXB sự thật Hà Nội - 1987, tr.20 . Trên tinh thần đó, Đại hội đã đưa ra những quan điểm và chính sách đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế. Tư tưởng chỉ đạo của các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất về công nghiệp hoá, Đại hội chỉ rõ : “Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việ thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thự phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…” và nhấn mạnh : “Các chương trình mục tiêu trên cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên đã được Đại hội lần thứ V của Đảng xác định” Đại hội VII : Đại hội VII của Đảng (1991) đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Cương lĩnh này đã chỉ rõ đặc trưng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta xây dựng (đã nêu ở mục 1 chương 1) và 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, trong đó có phương hướng thứ hai là : “… phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã đánh giá việc thực hiện nghị quyết đại hội VII khẳng định : “Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải khắc phục, thành tự quan trọng đạt được đã và đang tạo ra những tiền đề để đưa đất nước, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Như vậy, đến hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ta đã đưa ra khái niệm “công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Tuy nhiên “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” là gì thì chưa thật rõ. Hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII (7/1994) về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” đã xác định rõ khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau : “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuỷên đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao” Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCH TW khoỏ VII - lưu hành nội bộ - Hà Nội - 1994 , tr 65. . Nghị quyết cũng chỉ rõ : “Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” S.đ.d trang 70 . Như vậy , trải qua 5 kỳ đại hội Đảng từ đại hội III đến hội nghị lần thứ 7 khoá VII, khái niệm, nội dung và mục tiêu “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước mới được xác định rõ ràng, đầy đủ. Đây là kết quả của quá trình tiến hành cách mạng cảu Đảng ta. Kết qủa này cùng với thành tựu 10 năm đổi mới đã cho phép Đại hội VIII (1996) của Đảng ta đánh giá : “Nhệim vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã cơ bản hoàn thành” Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII-NXB Chớnh trị quốc gia - Hà Nội - 1996, tr 67-68 và quyết định chuyển sang “Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” S.đ.d, tr 80 . Đại hội IX (2001) của Đảng đã đề ra đường lối kinh tế cơ bản và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), trong đó xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kím phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường ; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản ; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” kVăn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chớnh trị quốc gia - Hà Nội - 2001, tr 89 . Trong nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có xác định : “Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, từng bước phát triển kinh tế tri thức, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá” S.đ.d, trang 91 . 3.1.3- Xuất phát từ đặc điểm nước ta, từ mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp mà Đảng đề ra : công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, về mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp là 2 ngành kinh tế chủ chốt có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển. Trong mối quan hệ đó, công nghiệp cung cấp vật tư (công cụ, máy móc, phânbón, thuốc trừ sâu…) cho nên sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng cho nông dân. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên, vật liệu cho công nghiệp chế biến và lương thực, thực phẩm cho công nhân ; cung cấp hàng xuất khẩu lấy ngoại tệ nhập thiết bị máy móc và nguyên vật liệu cho công nghiệp. Về đặc điểm nước ta : Theo số liệu thống kê năm 2000 có : 11,27/14,5 triệu hộ (chiếm 77,7%) sống ở nông thôn, trong đó 9,9 triệu hộ (chiêm 87,9% số hộ nông thôn). sản xuất nông nghiệp 59,1 triệu trong số 77,7 triệu người (chiếm 76,06%) ở nông thôn Trong tổng số 39,3 triệu lao động của cả nước, thì lao động nông , lâm, ngư nghiệp chiếm 61,0% Như vậy, phần lớn lực lượng lao động của đất nước tham gia sản xuất trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, khoáng 3/4 số hộ, số người sống ở nông thôn. Xuất phát từ mối quan hệ giữa công nghiệp. Xuất phát từ mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động của nước ta nêu trên, Đảng ta xác định “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nhận thức của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn qua các đại hội. Đại hội III : “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Đại hội IV : “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. ở đây vai trò của nông nghiệp đã được xác định là cơ sở để phát triển công nghiệp. Theo tinh thần đó, kết hợp với thực tiễn kinh tế, đời sống của nước ta khi ấy Đại hội V của Đảng khẳng định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Đại hội VI của Đảng đã đưa ra những quan điểm và chính sách đổi mới, đề ra 3 chương triknhf mục tiêu : “Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Đại họi VII đánh giá thành tựu của việc thực hiện 3 chương trình và xác định “ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế, xã hội” (21). Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khoá VII đã ra nghị quyết về “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”, “Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) lại nhấn mạnh : “Từ nay đến cuối thập kỷ phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” . Đại hội II của Đảng quyết định đưa nước ta “chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đại hội chỉ rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là : “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp hình thành cá vùng tập trung chuyên canh các cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong, ngoài nước. Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ gới hoá, sinh học hoá. Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thông mới văn minh, hiện đại” Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp theo hướng nông thôn thời kỳ 2001 - 2010” đã trình bày rõ hơn nội dung

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận- Tìm hiểu sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở .DOC
Tài liệu liên quan