Trường ĐHSP Huế được thành lập năm 1957, tiền thân Trường CĐSP Huế. ĐHSP Huế bắt đầu đào tạo sinh viên hệ Đại học từ năm 1958 – 1959. Bước vào cuối thế kỷ XX – theo nghị quyết 30/CP của chính phủ quyết định sáp nhập Trường ĐHSP Huế với 5 trường Đại học khác là: ĐH Khoa học Huế, ĐH Kinh tế Huế, ĐH Nông Lâm Huế, ĐH Ngoại ngữ và ĐH Nghệ thuật Huế (nay là Học viện âm nhạc) thành Đại học Huế. Từ đó ĐHSP Huế hoạt động và phát triển dưới sự chỉ đạo của Đại học Huế.
Khoa Hoá là một trong những khoa của trường đại học sư phạm Huế, với đội ngũ giảng viên đông đảo, mỗi người phụ trách về một học phần, nội dung cụ thể theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo khoa.
Năm hai khoa Hoá có hai lớp: Hoá 2A và Hoá 2B. Lớp Hoá 2A có 57 sinh viên, 13 nam và 44 nữ, lớp Hoá 2B có 56 sinh viên trong đó 14 nam và 42 nữ. Tổng cộng số sinh viên năm hai của khoa Hoá là 113, tuy nhiên phạm vi đề tài chỉ giới hạn 100 sinh viên.
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5367 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường Đại học sư phạm Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh, GS Hoàng Đức Nhuận và GS Lê Đức Phúc đã nêu ra các chỉ số:
Chú ý
Hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập
Hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao
Đọc thêm và làm các bài tập khác
Vận dụng hay chuyển tải những gì đã học vào thực tế
Hình thành và phát triển các quan hệ với thầy, cô, bạn bè nhằm mục đích giúp đỡ bản thân học tập tốt hơn
Chất lượng sản phẩm, kết quả học tập
Theo các nhà tâm lý học đã đưa ra dấu hiệu thái độ độc lập trong học tập:
Tự đặt vấn đề
Tự giải quyết vấn đề theo nhiều chiều, nhiều phương khác nhau
Có ý chí theo đuổi mục đích đến cùng
Tự đánh giá kết quả tìm được
Cần có thái độ đúng với việc sử dụng các phương tiện; thư viện, phòng thí nghiệm bộ môn
1.4. Đặc điểm của môn Giáo dục học
1.4.1. Vị trí, vai trò của môn GDH trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm
Giáo dục học là bộ môn khoa học có tầm quan trọng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt đối với việc đào tạo nghề nghiệp cho người giáo viên tương lai - những nhà sư phạm sẽ góp phần đào tạo nên những con người có ích cho xã hội.
Cùng với tâm lý học (TLH), GDH giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức khoa học mà còn trang bị cho những tri thức nghiệp vụ, rèn luyện tay nghề. GDH chuẩn bị hành trang trực tiếp cho các giáo sinh sau này làm công tác giáo dục. Sở dĩ như vậy vì nó không chỉ đảm bảo trau dồi về mặt tri thức lý luận mà còn đảm bảo trang bị các năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Có ý kiến cho rằng nếu không có môn GDH thì nhà trường sư phạm không thể xem là nơi đào tạo nghề sư phạm được.
Giáo dục học có chức năng trội là hình thành những phẩm chất cho sinh viên, có lợi thế là giáo dục lòng yêu nghề, yêu trẻ, giáo dục tình cảm yêu nghề nghiệp, hình thành và củng cố lòng tin vào nghề. Nếu ai đó đã vào trường sư phạm mà không yêu thích nghề dạy học thì GDH chính là phương tiện để củng cố niềm tin nghề nghiệp ở họ, để cho họ an tâm với nghề mà mình lựa chọn. Cũng chính vì vậy mà môn GDH còn được xem là môn học dạy nghề, là môn học đặc trưng của nhà trường sư phạm.
Ngoài ra GDH còn là môn học phục vụ chính trị, nó quán triệt được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào tạo, chính vì vậy mà ngoài việc trang bị cho sinh viên những tri thức nghiệp vụ thì nó còn trang bị cho họ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, giáo dục thể hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước để kế thừa và xây dựng thành công CNXH.
Thông qua môn học này sinh viên không những nắm được nguyên lý giáo dục của Đảng ta mà còn nắm được những tri thức về khoa học giáo dục, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cho việc học tập hiện tại và giảng dạy trong tương lai, bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, trau dồi đạo đức, có tình cảm đối với học sinh và đối với nghề giáo. Phát huy tư duy sáng tạo, có động lực đúng đắn để tự hoàn thiện mình, chủ động đáp ứng được sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội mới cũng như đối với người giáo viên tương lai.
Chính vì những lý do đó mà môn GDH nó có vị trí hết sức đặc biệt trong nhà trường sư phạm, là môn học không thể thiếu được để nhà trường sư phạm sản xuất ra “những kỹ sư tâm hồn” phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, đưa nền giáo dục nước ta phát triển nhịp nhàng với các nước trên thế giới.
1.4.2. Vai trò của thái độ học tập đối với chất lượng học tập nói riêng và đối với sự phát triển nhân cách sinh viên nói chung
Quá trình học của sinh viên là một quá trình vận động dưới chỉ đạo hướng dẫn của giáo viên .I.F.Kharlamôp đã chỉ rõ : “Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa tác động bên ngoài của giáo viên, bộc lộ trong việc trình bày tài liệu, chương trình và tổ chức công tác học tập của sinh viên và sự căng thẳng trí tuệ bên trong của các em mới tạo nên cơ sở học có hiệu quả”. Vì vậy, dù được đặt trong một môi trường, điều kiện hoàn cảnh thuận lợi, thầy cô giáo tâm huyết với nghề trang thiết bị học tập đầy đủ khang trang đến đâu đi chăng nữa nếu bản thân học sinh không có thái độ học tập đúng đắn thì không thể chủ động, tích cực, tự giác và chẳng có được kết quả học tập cao. Bản thân sinh viên phải là một chủ thể tích cực tự khám phá chiếm lĩnh tri thức, tự đặt kế hoạch học tập, tự lựa chọn nội dung, mục đích, cách thức học tập dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Nếu sinh viên có thái độ học tập tích cực khi tham gia vào quá trình lĩnh hội tri thức thì sẽ biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục và như vậy sinh viên sẽ thu được hiệu quả học tập cao nhất, như vậy thái độ học tập của sinh viên sẽ quyết định tính tích cực nỗ lực và ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng học tập của chính họ .
Thái độ là yếu tố cần được hình thành và phát triển ở sinh viên . Nó có mối liên hệ chặt chẽ với sự hình thánh và phát triển nhân cách của sinh viên. Chỉ có học tập với thái độ tích cực, niềm say mê, khát vọng, sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao mới giúp sinh viên nắm được những tri thức cần thiết từ đó thúc đẩy sự phát triển trí tuệ. Trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất trí tuệ, thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, dần dần hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu của xã hội.
1.4.3. Sự cần thiết nâng cao thái độ học tập môn GDH cho sinh viên sư phạm
Trong nhà trường sư phạm thì việc nâng cao được thái độ trong hoạt động nhận thức cho sinh viên là việc làm hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với bộ môn GDH thì đó là một yêu cầu không thể thiếu để có thể giúp sinh viên có được kết quả học tập, nhận thức một cách cao nhất.
Như chúng ta đã biết trong nhà trường sư phạm bộ môn GDH có vai trò và vị trí hết sức quan trọng, nó không chỉ trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức khoa học mà còn có khả năng rèn luyện những tri thức về nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết, chuẩn bị hành trang trực tiếp cho sinh viên có thể làm tốt công tác dạy học – giáo dục sau này. Tuy nhiên trong quá trình học tập không phải bất cứ sinh viên nào cũng nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về tầm quan trọng của bộ môn GDH, do vậy nhìn chung trong những năm qua theo kết quả điều tra thì phần lớn cho thấy các kết quả học tập bộ môn GDH chưa cao, các kỹ năng sư phạm trước khi sinh viên ra trường cũng phần nào chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế của việc tham gia vào quá trình dạy học.
Thực trạng học tập bộ môn GDH kém là do phần lớn sinh viên chưa có được sự cố gắng trong học tập, nhận thức còn hời hợt, thái độ trong hoạt động nhận thức chưa cao, đồng thời do chính phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng chưa đạt hiệu quả. Từ những vấn đề trên cho thấy việc cần thiết phải nâng cao thái độ trong hoạt động nhận thức cho sinh viên là một trong những việc làm cần thiết và cấp bách trong quá trình dạy học bộ môn GDH hiện nay.
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên trong học tập Giáo dục học.
Thái độ học tập nói chung và học tập môn giáo dục học nói riêng có rất nhiều yếu tố tác động và chi phối. Đó có thể là do môn học, giáo viên, điều kiện và cơ sở vật chất, trình độ và năng lực của mỗi bản thân...nhưng đều nằm trong các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan:
1.5.1 Các yếu tố khách quan
Sự hấp dẫn môn học
Đây là yếu tố tác động mạnh đến việc hình thành và phát triển thái độ học tập. Sự hấp dẫn môn học thu hút sự tập trung chú ý và thoả mãn được nhu cầu nhận thức của mỗi người học tạo ra sự say mê thích thú và có những thái độ tích cực trong học tập.
Phương pháp và năng lực giảng dạy của giảng viên
Yếu tố này tác động mạnh đến nhận thức và chi phối đến yếu tố khác.
Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình dạy và học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của thầy nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Nghĩa là giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với các phương pháp dạy học khác nhau để giờ học đỡ nhàm chán, tẻ nhạt.
Người giáo viên có nhiều năng lực như năng lực hiểu học sinh, năng lực tri thức...trong đó năng lực gia công và chế biến tài liệu học tập. Muốn nâng cao nhận thức và thái độ học tập môn tâm lý học thì người giáo viên phải gia công như thế nào để phù hợp với trình độ, nghề nghiệp...để bài học trở nên hấp dẫn, sinh động. Biết cách khơi dậy và phát triển nhu cầu nhận thức của người học. Tầm hiểu biết, cách tổ chức và hướng dẫn hoạt động học tập của giáo viên cũng làm cho không khí lớp học càng thêm sinh động.
Vị trí và nội dung môn học
Phần lớn sinh viên thường có thói quen và sở thích chú trọng các môn chuyên ngành còn các môn học khác thì học tập không được tích cực so với môn chính. Điều này cũng có ảnh hưởng tới thái độ học tập nói chung và giáo dục học nói riêng.
Mỗi môn giáo dục học có đặc trưng riêng do nội dung, tính chất cơ cấu và sự sắp xếp chương trình: Nếu nội dung phù hợp với trình độ nhận thức, phù hợp với khả năng của sinh viên, phù hợp với thực tiễn sinh động thì hình thành và phát triển thái độ học tập môn giáo dục học.
Bầu không khí lớp học
Là nhân tố tác động đến thái độ học tập của người học vì thế nếu lớp học có bầu không khí căng thẳng thì ảnh hưởng xấu đến hứng thú học tập. Nếu không khí tâm lý thoải mái, tích cực, sinh động thì tác động rất tốt đến hứng thú học tập.
Cơ sở vật chất và điều kiện học tập
Bao gồm quỹ thời gian trường, lớp và các phương tiện kỹ thuật dạy học...cũng là yếu tố giúp sinh viên học tập có hiệu quả.
1.5.2 Các yếu tố chủ quan
Động cơ chọn nghề
Tất cả các sinh viên khi dự thi vào trường Sư phạm không phải đều do ý nguyện, sở thích của bản thân mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như; mong muốn của gia đình, hoàn cảnh gia đình, ngoài ra cung có một số lý do khác như điều kiện kinh tế, vật chất hay tâm lý bản thân.
Tuỳ theo mỗi trường hợp mà hình thành thái độ học tập khác nhau. Có thể năng lực là tương đương nhưng về thái độ học tập các môn học nói chung và giáo dục học nói riêng của những bạn muốn làm giáo viên học tập say mê, tích cực...hơn những người dự thi theo lý do khác.
Trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên
Đây là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành và phát triển nhận thức cũng như thái độ học tập các môn giáo dục học của sinh viên. Do vậy, trình độ nhận thức là cơ sở cần thiết để phát triển thái độ học tập một cách đúng đắn đồng thời là điều kiện quan trọng để bồi dưỡng thái độ học tập. Khi cá nhân hiểu được toàn bộ ý nghĩa, nhận thức rõ tầm quan trọng của công việc đã làm và đang làm hay nói chính xác hơn là của việc học tập nói chung và môn tâm lý học nói riêng thì ở họ nảy sinh thái độ tích cực, tự giác trong hoạt động nhận thức.
Mặt khác, sự phát triển trí tuệ cá nhân còn là cơ sở để tạo ra thành tích trong công việc cũng như trong học tập. Không ai có thể đạt được thành tích, có thể hành động đạt kết quả nếu họ không có một trình độ phát triển trí tuệ và khả năng nhất định. Vấn đề nhận thức quá khó hay quá dễ đều ảnh hưởng tới thái độ học tập. Khi trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên thấp thì hầu hết các môn học đối với họ đều quá khó, khi đó mọi vấn đề đều nằm ngoài tầm hiểu biết của họ, thái độ chán nản xảy ra là điều tất yếu. Ngược lại khi trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên đã phát triển cao mà giáo viên không gợi ra các vấn đề thực tiễn cho họ tìm tòi, sáng tạo thì ở họ sẽ luôn tồn tại những suy nghĩ “biết rồi không cần suy nghĩ, không cần chú ý” từ đó mà hình thành thái độ thờ ơ, không tập trung trong quá trình học tập.
Nhu cầu và hứng thú nhận thức
Phát triển nhu cầu nhận thức của sinh viên là một trong những biện pháp nảy sinh và xây dựng hứng thú học tập, từ đó quyết định tới thái độ học tập. Nhu cầu nhận thức cao sẽ làm nảy sinh khát khao và luôn tìm tòi để đạt được tri thức, làm cơ sở để hình thành hứng thú. Khi đã có hứng thú với môn học thì sẽ hình thành thái độ say mê học tập tích cực, nỗ lực vươn lên chiếm lĩnh tri thức vào thực tiễn cuộc sống, quá trình học tập...
Chương 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM HAI KHOA HOÁ TRƯỜNG ĐHSP HUẾ
2.1. Vài nét khái quát về Khoa Hoá - Trường ĐHSP Huế
Trường ĐHSP Huế được thành lập năm 1957, tiền thân Trường CĐSP Huế. ĐHSP Huế bắt đầu đào tạo sinh viên hệ Đại học từ năm 1958 – 1959. Bước vào cuối thế kỷ XX – theo nghị quyết 30/CP của chính phủ quyết định sáp nhập Trường ĐHSP Huế với 5 trường Đại học khác là: ĐH Khoa học Huế, ĐH Kinh tế Huế, ĐH Nông Lâm Huế, ĐH Ngoại ngữ và ĐH Nghệ thuật Huế (nay là Học viện âm nhạc) thành Đại học Huế. Từ đó ĐHSP Huế hoạt động và phát triển dưới sự chỉ đạo của Đại học Huế.
Khoa Hoá là một trong những khoa của trường đại học sư phạm Huế, với đội ngũ giảng viên đông đảo, mỗi người phụ trách về một học phần, nội dung cụ thể theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo khoa.
Năm hai khoa Hoá có hai lớp: Hoá 2A và Hoá 2B. Lớp Hoá 2A có 57 sinh viên, 13 nam và 44 nữ, lớp Hoá 2B có 56 sinh viên trong đó 14 nam và 42 nữ. Tổng cộng số sinh viên năm hai của khoa Hoá là 113, tuy nhiên phạm vi đề tài chỉ giới hạn 100 sinh viên.
Là những sinh viên năm thứ hai nên phần nào họ đã khá thích ứng được với hoạt động học tập ở đại học, tuy mỗi sinh viên có một đặc trưng riêng nhưng trong quá trình học tập các bạn đã cố gắng tích cực tìm hiểu nhiều đặc điểm hoà hợp để học tốt. Đặc biệt, sinh viên năm hai khoa Hoá được sự hướng dẫn, chỉ đạo của các giảng viên chủ nhiệm nhiệt tình và ban cán sự lớp năng nỗ, tích cực đã đạt được thành tích học tập khá cao trong năm vừa rồi. Đồng thời sinh viên năm hai khoa Hoá cũng tham gia rất tích cực trong hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của nhà trường và đạt nhiều giải cao.
2.2. Nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về môn Giáo dục học trong nhà trường sư phạm
Có thể nói hoạt động nhận thức là tiền đề quan trọng và có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác và các hình thức tâm lý của con người.
Nhận thức về môn Giáo dục học có thể đánh giá qua các chỉ số: nhận thức về sự cần thiết, nhận thức về tác dụng và nhận thức về đặc điểm của môn Giáo dục học.
2.2.1. Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết đối với môn Giáo dục học
Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về sự cần thiết của môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 1. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, kết quả như sau:
Bảng 1. Mức độ nhận thức của SV về sự cần thiết đối với môn GDH
Mức độ
Số lượng
Tỷ lệ %
Rất cần thiết
46
46%
Cần thiết
32
32%
Bình thường
24
24%
Không cần thiết
0
0%
Dựa vào bảng 1 ta thấy, phần lớn sinh viên cho rằng Giáo dục học là môn rất cần thiết trong nhà trường sư phạm, chiếm tỷ lệ cao nhất 46%, đó là môn học bắt buộc mọi sinh viên sư phạm phải trang bị cho mình để trở thành một nhà giáo giỏi, một nhà giáo không chỉ làm tốt nhiệm vụ dạy học mà còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục của mình. Hành trang của mỗi người trong tương lai không chỉ là kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần đến cả tri thức công cụ hỗ trợ cho việc hành nghề được tốt hơn. Đó là sự hiểu biết về Giáo dục học để qúa trình giáo dục đạt hiệu quả.
Có 32/100 ý kiến chiếm 32% số sinh viên nhận thức Giáo dục học là môn học cần thiết trong nhà trường sư phạm. Như vậy, 78% sinh viên đã đánh giá môn GDH thật sự có tầm quan trọng đối với những nhà giáo tương lai. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thái độ học tập tích cực đối với môn GDH .
Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận sinh viên không nhỏ cho rằng sự cần thiết của môn GDH chỉ ở mức bình thường, chiếm tỷ lệ 24%. Theo họ đây là môn học chung, môn điều kiện, việc có hoặc không có nó không liên quan đến chuyên ngành cũng như không có ý nghĩa quyết định đối với nghề nghiệp tương lai sau này. Họ tiến hành hoạt động học đối phó với kỳ thi hoặc xem nó là môn học bắt buộc, học một cách miễn cưỡng. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy những sinh viên này thường thờ ơ, không ghi chép bài vở và tỏ ra không quan tâm tới bài học hay mất trật tự, làm việc riêng, ngủ gật trong giờ học. Đặc biệt, không có sinh viên nào cho rằng việc học GDH là không cần thiết (0%).
Tóm lại: phần lớn sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng, sự cần thiết của môn GDH, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số sinh viên chưa có nhận thức đúng đắn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ học tập môn GDH của họ.
2.2.2. Nhận thức về tác dụng của môn Giáo dục học ở sinh viên
Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về tác dụng của môn giáo dục học chúng tôi chọn 3 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 2. Tiêu chuẩn đánh giá như sau: mức độ 1 (rất đúng) 3 điểm, mức dộ 2 (có phần đúng) 2 điểm, mức độ 3 (không đúng) 1 điểm. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tổng điểm và điểm trung bình, kết quả như sau:
Bảng 2. Nhận thức của sinh viên về tác dụng của việc học môn GDH
(1: rất đúng, 2: có phần đúng, 3: không đúng)
TT
Mức độ
1
2
3
∑
TB
Tác dụng
SL
SL
SL
1
Trang bị hệ thống tri thức về khoa học giáo dục cho nghề dạy học.
88
12
0
288
2.88
2
Rèn luyện tri thức về nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết
56
39
5
251
2.51
3
Bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, giáo dục lòng yêu nghề mến trẻ.
79
13
8
271
2.71
4
Trang bị những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo.
57
33
10
247
2.47
5
Trang bị các năng lực tổ chức hoạt động giáo dục
42
45
13
229
2.29
Qua bảng 2 cho thấy hầu hết sinh viên cho rằng học môn GDH giúp sinh viên trang bị hệ thống tri thức về khoa học giáo dục cho nghề dạy học với số điểm trung bình cao nhất (2.88). Chiếm vị trí thứ hai là tác dụng bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, giáo dục lòng yêu nghề mến trẻ cho sinh viên sư phạm với số điểm trung bình (2.71). Tiếp theo là nhóm tác dụng của môn GDH là rèn luyện tri thức về nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết và trang bị những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo điểm trung bình lần lượt là (2.51) và (2.47). Sau cùng là trang bị các năng lực tổ chức hoạt động giáo dục chỉ có số điểm trung bình là (2.29), thấp hơn so với các tác dụng khác.
Nhìn chung, tuy có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn sinh viên đã có nhận thức đúng đắn và tương đối đồng đều về tác dụng của môn GDH, dễ thấy điểm trung bình của các tác dụng khá cao (đều trên 2.2) và không chênh lệch nhau lớn. Nó góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển thái độ học tập tích cực đối với môn GDH của sinh viên.
2.2.3. Nhận thức về đặc điểm của việc học tập môn Giáo dục học
Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về đặc điểm của môn GDH chúng tôi chọn 4 đặc điểm được trình bày ở câu hỏi số 3. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tỷ lệ phần trăm kết quả như sau:
Bảng 3. Nhận thức của SV về đặc điểm của môn GDH
Đặc điểm
Số lượng
Tỷ lệ %
Dễ học, dễ hiểu
28
28%
Trừu tượng nhưng dễ tiếp thu
20
20%
Trừu tượng, khó tiếp thu, khó hiểu
8
8%
Có phương pháp học tốt thì dễ hiểu
44
44%
Như vậy, có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề đặc điểm của môn GDH. Chiếm số lượng lớn nhất là đồng ý với đặc điểm có phương pháp học tốt thì dễ hiểu, chiếm (44%). Ngược lại, đặc điểm trừu tượng, khó tiếp thu, khó hiểu ít được sinh viên lựa chọn nhất, chỉ chiếm (8%). Còn có một bộ phận sinh viên cho rằng GDH dễ học, dễ hiểu và GDH trừu tượng nhưng dễ tiếp thu chiếm tỷ lệ lần lượt (28%) và (20%). Vâng, từ nhận thức rất khác nhau về đặc điểm của môn GDH, vấn đề đặt ra cho người dạy môn GDH là phải có những phương pháp tác động cụ thể, sát đối tượng, sinh động để sinh viên có thể học tốt bộ môn này. Mỗi môn học có những khó khăn riêng, mỗi sinh viên cũng có trình độ nhận thức khác nhau vì vậy là sinh viên nên tự tìm cho mình phương pháp học tập phù hợp nhất, nhằm nâng cao chất lượng học tập môn GDH nói riêng và hiệu quả học tập nói chung.
2.3. Thái độ học tập môn Giáo dục học của sinh viên
2.3.1. Thái độ của sinh viên đối với môn Giáo dục học
Để điều tra thái độ của sinh viên năm hai khoa Hoá đối với môn GDH chúng tôi chọn 5 thái độ được trình bày ở câu hỏi số 4. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tỷ lệ phần trăm, kết quả như sau:
Bảng 4. Thái độ của sinh viên đối với môn Giáo dục học.
Thái độ
Số lượng
Tỷ lệ %
Rất say mê, hứng thú
10
10%
Hứng thú
21
21%
Bình thường
52
52%
Thờ ơ, không hứng thú
17
17%
Chán ghét
0
0%
Nhìn chung, sinh viên chưa có thái độ học tập tích cực. Số sinh viên rất say mê, hứng thú chiếm (10%) và số sinh viên có thái độ hứng thú cũng chỉ chiếm (21%). Như vậy qua bảng 4 cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các mức độ nhận thức và tỏ thái độ của sinh viên đố với môn GDH. Nếu ở bảng 1 đa số sinh viên nhận thức được việc trang bị kiến thức GDH cho sinh viên sư phạm là rất cần thiết và cần thiết thì ở đây sinh viên bày tỏ thái độ không phù hợp với những gì họ nhận thức. GDH là môn học nặng về lý thuyết nên không dễ tạo nên sự thích thú và hào hứng đối với sinh viên. Bởi thế sinh viên hứng thú với nó chiếm tỷ lệ không nhiều.
Số sinh viên có thái độ bình thường chiếm tỷ lệ hơn ½ tổng số sinh viên trả lời ( 52%). Chính điều này sẽ cản trở lớn việc thể hiện tính tích cực học tập của sinh viên. Không ít sinh viên cho rằng đây là môn học chung, môn học điều kiện nên chưa bày tỏ yêu thích nó cũng như hành động tích cực trong học tập có nhiều hạn chế .
Tuy nhiên, còn có (17%) sinh viên thờ ơ, không hứng thú khi học GDH. Tìm hiểu cho thấy số sinh viên này rơi vào số sinh viên đánh giá GDH không thực sự quan trọng và cần thiết đối với bản thân của họ.
Qua trao đổi với một giảng viên được biết các em thường có những biểu hiện thờ ơ, không tập trung chú ý, không hoàn thành các bài tập. Có thể sự không yêu thích môn GDH do nhiều nguyên nhân chi phối nằm trong bản thân mỗi sinh viên (như năng lực, nhu cầu, hứng thú, sở thích...) hoặc nằm ngoài bản thân người học như (nội dung, phương pháp giảng dạy của giáo viên, điều kiện học tập ..v v). Dù là nguyên nhân nào đó đi nữa thì trước hết sinh viên phải điều chỉnh và đánh giá đúng đắn để bày tỏ thái độ phù hợp hơn, bởi vậy thái độ sẽ là tiền đề cho hành động học tập tích cực của sinh viên trong quá trình học tập từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả học tập và giảng dạy bộ môn này trong nhà trường đại học.
Không có sinh viên nào chán ghét khi học môn GDH, chiếm (0%), đây là điều đáng mừng. Vì nếu sinh viên không chán ghét học GDH thì việc nâng cao thái độ cho sinh viên sẽ gặp ít khó khăn hơn.
2.3.2. Thái độ của sinh viên trong giờ học môn Giáo dục học
Để điều tra về thái độ của sinh viên năm hai khoa Hoá trong giờ học môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu hỏi số 5. Tiêu chuẩn đánh giá như sau: mức độ 1 (thường xuyên) 4 điểm, mức độ 2 (thỉnh thoảng) 3 điểm, mức độ 3 (hiếm khi) 2 điểm và mức độ 4 (Chưa bao giờ) 1 điểm. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, tính ra tổng điểm và điểm trung bình, kết quả như sau:
Bảng 5. Thái độ của sinh viên trong giờ học môn Giáo dục học.
TT
Các mức độ
1
2
3
4
Các biểu hiện
SL
SLL
SL
SL
∑
TB
Xếp hạng
Mong muốn được giảng viên gọi trả lời câu hỏi
9
12
39
40
190
1.90
6
Kết hợp đọc giáo trình và tài liệu tham khảo
2
5
11
82
127
1.27
10
Tập trung, chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ
52
28
16
4
380
3.80
1
Tích cực phát biểu xây dựng bài
16
9
23
5 52
1 189
1.89
7
Tích cực suy nghĩ khi giảng viên nêu vấn đề
28
26
35
11
271
2.71
3
Ghi chép những câu nói, tục ngữ, danh ngôn...có liên quan đến môn học.
0
9
24
67
142
1.42
9
Tham gia đầy đủ các tiết học Giáo dục học
74
20
6
0
368
3.68
2
Tích cực tham gia các buổi ngoại khoá
26
37
29
8
218
2. 2.18
5
Trao đổi với giảng viên khi chưa thực sự hiểu bài
8
12
15 15
65
16 163
1.63
8
Trao đổi với bạn bè về những vấn đề mình quan tâm
16
33
35
16
249
2.49
4
Qua số liệu điều tra cho thấy, điểm TB lớn nhất (3.80) là biểu hiện “tập trung chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ”. Đến lớp việc chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ là quan trọng nhất, là nhiệm vụ tất yếu của mỗi sinh viên để tiếp thu tri thức mở rộng kiến thức của mình. Xét trong các biểu hiện thì đây là nhiệm vụ quả không khó đối với người học. Bởi vậy việc tập trung nghe giảng và chú ý ở mức gần như thường xuyên là điều dễ hiểu.
Xếp thứ hai là biểu hiện “tham gia đầy đủ các tiết học Giáo dục học” với điểm TB (3.68). Có thể nói phần lớn sinh viên đã tham gia đầy đủ các tiết học GDH với mức độ gần như thường xuyên. Tuy nhiên, qua phỏng vấn chúng tôi được biết bên cạnh nhiều sinh viên đi học đầy đủ vì thích học và sợ không hiểu bài thì một số sinh viên thường xuyên tham gia đầy đủ các tiết học giáo dục học là vì họ sợ bị mất điểm chuyên cần, thái độ. Vì chỉ cần nghỉ một buổi học không phép là điểm chuyên cần thái độ phải dưới 8. Chứng tỏ bên cạnh đa số sinh viên có thái độ tích c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu thái độ học tập môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP Huế.doc