Tiểu luận Tìm hiểu tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xã hội phi Mác Xít

MỤC LỤC

 

Trang

- MỞ ĐẦU 1

- NỘI DUNG 4

1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 4

2. Hồ Chí Minh đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam 7

2.1. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa Tờ-rôt-xkít 7

2.2. Hồ Chí Minh phê phán khuynh hướng "giáo điều", "khuynh hữu", "khuynh tả" trong Đảng Cộng sản Việt Nam 10

2.3. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ vai trò của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam 14

2.4. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam 17

2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, văn nghệ gián tiếp phủ nhận bọn "nhân văn - giai phẩm" 20

2.6. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân 23

3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu CNXH phi Mác xít 26

3.1. Ý nghĩa lý luận 26

3.2. Ý nghĩa thực tiễn 30

KẾT LUẬN 32

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2153 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xã hội phi Mác Xít, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uynh hướng giáo điều là nguy hại hơn cả. "Hai khuynh hướng ấy đều sai lầm. Sai lầm nhất là khuynh hướng giáo điều, vì nó mượn những lời của Mác, Lênin, dễ làm cho người ta lầm lẫn" [16, 247]. Đối với Hồ Chí Minh, để sửa chữa những khuynh hướng sai lầm ấy, phương pháp tốt nhất là không ngừng học tập chủ nghĩa Mác - Lênin gắn liền với hoạt động thực tiễn của cách mạng. Học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học một câu chữ, giáo điều máy móc, học tập như vậy sẽ lại dẫn đến sai lầm mà theo Hồ Chí Minh, độc lập lý luận không phải để biến "thành những người lý luận suông" [1, 138] mà học tập lý luận là để nhằm cho công tác thực tiễn được tốt hơn. Nghĩa là phải "học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng" [1, 138]. Nắm vững lý luận rồi lại phải vận dụng lý luận đó vào thực tiễn, đó là cách tốt để khắc phục khuynh hướng giáo điều. Bản thân lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận cách mạng song "lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh động" [1, 137]. Do vậy mà Hồ Chí Minh viết: "Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch. Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta" [1, 138]. "Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta" [1, 138]. Vì không chịu hoạt động thực tiễn, lại chỉ học lý luận một cách máy móc mà sinh ra giáo điều, như thế rất nguy hại đối với cách mạng Việt Nam. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận và thực tiễn gắn bó rất chặt chẽ với nhau, lý luận và thực tiễn là một thể thống nhất. Người viết: "Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành" [16, 247]. "Thực hành, hiểu biết, lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vòng như thế mãi, không bao giờ ngừng. Và nội dung của thực hành và hiểu biết lần sau cao hơn lần trước" [16, 257]. Đó chính là "nội dung vấn đề hiểu biết trong duy vật biện chứng" [16, 257] là vấn đề có thể khắc phục được khuynh hướng giáo điều trong cách mạng Việt Nam. 2.2.2. Phê phán khuynh hướng "khuynh hữu", "khuynh tả" Cách mạng là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, cách mạng lại không ngừng vận động và phát triển, vì vậy người cách mạng phải có vốn lý luận phong phú, có hiểu biết thực tiễn cách mạng sâu sắc, có như vậy mới đảm bảo đưa cách mạng đến thắng lợi. Tuy vậy không phải ai cũng tiến kịp với tiến trình cách mạng mà vì thế dẫn tới "khuynh tả" và "khuynh hữu" trong cách mạng. Hồ Chí Minh nhận định về vấn đề này, như sau: "Trong thời kỳ cách mạng, tình hình biến đổi rất mau. Nếu sự hiểu biết không theo kịp thì khó mà đưa cách mạng đến thắng lợi. Thường có khi tư tưởng không theo kịp thực tế. Đó là vì sự hiểu biết của người bị điều kiện xã hội hạn chế" [16, 255]. Từ sự không theo kịp tình hình thực tế đó mà dẫn đến sai lầm và Hồ Chí Minh kiên quyết phản đối cả khuynh hướng "tả" và khuynh hướng "hữu" trong cách mạng. "Phải phản đối những người khuynh hữu. Tư tưởng của hệ thống theo kịp sự biến đổi của tình hình khách quan. Tình hình đã tiến lên mà sự hiểu biết của họ cứ ở chỗ chủ, vì tư tưởng của họ xa rời thực hành" [16, 255]. Chính họ sẽ là người làm phương hại đến sự nghiệp của cách mạng. Hồ Chí Minh ví "Họ cũng như những người không đi trước xe để hướng dẫn, lại chạy sau xe và tránh xe chạy mau quá. Họ muốn gò xe lại, làm cho xe thụt lùi" [16, 255]. Còn đối với người tả khuynh, Hồ Chí Minh viết: "Lại cần phản đối những người khuynh tả. Họ chỉ biết nói cho sướng miệng. Tư tưởng của họ nhảy qua những giai đoạn phát triển nhất định. Họ cho ảo tưởng là sự thật. Họ xa rời thực hành của đại đa số nhân dân. Họ không thiết thực. Họ hành động một cách liều mạng" [16, 255]. Những người "khuynh hữu" làm lùi lại bánh xe cách mạng, còn những người "khuynh tả" thì không thực tế, rơi vào "ảo tưởng" và hành động liều mạng. Cả hai hạng người này, hai khuynh hướng này đều cần phải chống. Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta chống sai lầm tả khuynh và hữu khuynh, vì nó trái với điều kiện lịch sử" [16, 256] và như thế sẽ làm tổn hại đến tiến trình cách mạng. Như vậy là trong quá trình cách mạng Việt Nam, khuynh hướng "giáo điều", "khuynh tả', "khuynh hữu" đều đa xnảy sinh và chúng có ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nếu không đấu tranh chống các khuynh hướng này sẽ rất nguy hiểm vì chúng có thể dẫn tới sự xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời hệ tư tưởng của GCCN một cách nhanh chóng hơn. Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: trong xã hội có giai cấp, không có hệ tư tưởng phi giai cấp, hệ tư tưởng trung gian. Mọi sự xa rời hệ tư tưởng của GCCN đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. ý thức được ý nghĩa của việc đấu tranh chống các khuynh hướng sai lầm trong Đảng, Hồ Chí Minh đã phê phán các khuynh hướng đó, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến khuynh hướng sai lầm. Hoặc là do không chịu học tập lý luận, hoặc chỉ học tập lý luận một cách máy móc, không vận dụng vào thực tiễn hoặc do tư tưởng không theo kịp thực tiễn. Nói gọn lại các khuynh hướng sai lầm đó là do không gắn lý luận với thực tiễn, gắn "biết với làm" làm một. Khắc phục chúng phải bằng cách không ngừng học tập lý luận đồng thời phải vận dụng lý luận vào thực tiễn sinh động của cách mạng. Có như vậy mới làm cho lý luận và thực tiễn trở thành một thể thống nhất và có như vậy, cách mạng mới tiến lên. 2.3. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ vai trò của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam Đối với Hồ Chí Minh, phê phán, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, quan điểm phi Mác xít là công việc cần thiết và quan trọng trong tiến trình cách mạng. Việc đấu tranh, phê phán đó không những đã loại bỏ được những phần tử xấu, phần tử phản động khỏi phong trào cách mạng, góp phần làm tăng thêm sức mạnh của cách mạng mà về mặt lý luận nó còn bảo vệ, khẳng định tính đúng đắn và phát triển thêm học thuyết cách mạng và khoa học. Người viết: "Đấu tranh một cách không điều hòa chống bọn cải lương và bọn xuyên tạc chủ nghĩa Mác đủ các loại, Lênin đã nâng chủ nghĩa xã hội khoa học lên một giai đoạn mới. Người đã làm phong phú chủ nghĩa Mác... Lênin đã xây dựng lý luận mới, hoàn chỉnh về cách mạng XHCN, đã chứng minh CNXH có thể thắng lợi ở một nước riêng lẻ" [1, 53]. Từ lẽ đó, trong quá trình cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng luôn luôn chú ý tới những quan điểm, khuynh hướng sai trái, xa rời nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, do đặc thù ra đời và phát triển của mình mà GCCN Việt Nam ra đời với số lượng ít và trình độ còn non yếu. Từ đó đã đưa tới quan điểm phủ nhận hay nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của GCCN Việt Nam đối với cách mạng. Hồ Chí Minh viết: "GCCN Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách mạng" [10, 212] và Người cũng trả lời ngay đối với sự nghi ngờ đó: "Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp" [10, 212]. Để làm rõ thêm luận điểm này, Hồ Chí Minh đã luận giải thêm về đặc tính cách mạng, tổ chức cách mạng của GCCN Việt Nam và những đặc điểm của các giai tầng khác trong xã hội khiến cho chỉ có GCCN chứ không phải là một giai cấp nào khác có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Về đặc tính cách mạng của GCCN, Hồ Chí Minh viết: "Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm để chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, GCCN có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác, vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, GCCN đều giữ vai trò lãnh đạo" [10, 212]. Đó là xét về đặc tính, còn xét về hệ tư tưởng và tổ chức, "GCCN có chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của GCCN ngày càng phát triển" [10, 212]. Phân tích về giai cấp nông dân, Người nhận xét: "Vì hoàn cảnh kinh tế mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ và lãnh đạo họ, thì họ là một lực lượng rất to lớn vững chắc" [10, 213]. Còn giai cấp tiểu tư sản, theo Hồ Chí Minh, họ có những nhược điểm như: "tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết... cho nên đối với họ, GCCN cần phải tuyên truyền, tổ chức họ, giúp họ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược điểm, cần phải khôn khéo lãnh đạo họ, làm cho họ quyết tâm phụng sự nhân dân, cải tạo tư tưởng, cùng với công nông kết thành một khối, thì họ mới trở nên tác dụng to lớn trong công cuộc kháng chiến, cách mạng" [10, 214]. Giai cấp tư sản dân tộc, "một mặt thì họ bị đế quốc và phong kiến ngăn trở, cho nên họ cũng muốn chống đế quốc và phong kiến. Nhưng mặt khác họ là giai cấp bóc lột, cho nên họ cũng sợ giai cấp bóc lột nổi lên đấu tranh... Do đó mà tư sản dân tộc vừa muốn cách mạng vừa muốn thỏa hiệp. Bởi vậy GCCN vừa phải đoàn kết với họ vừa phải đấu tranh với họ để bảo vệ quyền lợi của công nhân" [10, 214-215]. Từ việc phân tích đặc điểm, vai trò, khả năng của các giai tầng xã hội trong cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm toát lên vai trò to lớn của GCCN Việt Nam. Chỉ có GCCN mới là giai cấp cách mạng nhất, triệt để nhất, có tinh thần kỷ luật nhất, có tổ chức nhất nên họ sẽ là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh viết: "Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng tăng thêm. Tuy hiện nay ở nước ta GCCN còn nhỏ, song ở thế giới thì GCCN rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do GCCN nắm" [10, 212]. Hồ Chí Minh cũng khẳng định, không có sự lãnh đạo của GCCN thì cách mạng không thể đi đến thắng lợi: "Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do GCCN lãnh đạo... Cách mạng ở Liên Xô và ở các nước khác trong phe XHCN đã chứng thực điều đó, không ai chối cãi được" [17, 283]. Như vậy, bằng những luận điểm khoa học, bằng những chứng cứ thực tiễn, Hồ Chí Minh đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của GCCN trong cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn luôn tin tưởng và khẳng định vai trò cách mạng to lớn của GCCN, dưới sự lãnh đạo của GCCN, cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi. 2.4. Quan điểm nghi ngờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, từ đó Đảng luôn luôn giữ vai trò tiên phong và lãnh đạo trong phong trào cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn như cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến thắng lợi năm 1954, miền Bắc được giải phóng. Tuy nhiên trong quá trình phát triển tổ chức và lãnh đạo cách mạng, Đảng cũng gặp không ít khó khăn và mắc phải một số sai lầm khuyết điểm. Đảng đã phải đổi tên mấy lần, Đảng đã có lúc phải tuyên bố giải tán mà thực chất là rút vào hoạt động bí mật, Đảng đã mắc sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1954... từ những điều đó mà trong Đảng cũng như trong quần chúng nhân dân, nảy sinh sự nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Sự hoài nghi đó là chính đáng. Trước vấn đề "có người hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, có đúng không?" [1, 143], Hồ Chí Minh để giải đáp một cách đơn giản và khoa học. Trước hết Hồ Chí Minh đã đặt thêm một số câu hỏi để người nghi ngờ tự trả lời và tự khẳng định về sự lãnh đạo của Đảng. "Nếu Đảng lãnh đạo không đúng thì cách mạng tháng Tám có thành công không? kháng chiến có thắng lợi không? hơn 8 triệu nông dân miền bắc có ruộng cày không? 3 năm khôi phục kinh tế có hoàn thành được không? Và ngày nay, đang vào thời kỳ quá độ lên CNXH có được không? [1, 143]. Về vai trò và tính tất yếu lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, trong nhiều bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh đã luận giải rất rõ ràng. Hồ Chí Minh viết: "Có Đảng lãnh đạo, cách mạng và kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vì sao? "[10, 228]. Người trả lời, dù trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong xây dựng đất nước cũng đều phải cần có sự lãnh đạo của Đảng. Không có Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân chỉ là tự phát và sẽ thất bại. "Kinh nghiệm thế giới và trong nước chứng tỏ rằng: Những cuộc đấu tranh "tự phát" của nhân dân, thường không có mục đích rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, tổ chức chắc chắn. Vì vậy mà lực lượng rời rạc, nơi này lên thì nơi khác xẹp. Kết quả là thất bại" [10, 228]. Muốn thắng lợi thì sao? "Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột, phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi" [10, 228]. Hồ Chí Minh cũng nói rõ, cách mạng là "phức tạp", "gian khổ" cho nên phải có Đảng lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi. Người viết: "Cách mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định hướng phương châm cho đúng" [10, 228]. "Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền" [10, 228-229]. Ngay cả khi cách mạng đã thắng lợi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo vì: "Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân đến thắng lợi hoàn toàn" [10, 229]. Và để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của mình, lãnh đạo nhân dân kháng chiến và kiến quốc thì "Đảng phải thật mạnh mẽ, trong sạch, sáng suốt, thống nhất" [10, 229]. Vai trò lãnh đạo của Đảng là to lớn, tổ chức của Đảng là chặt chẽ, kỷ luật, đường lối của Đảng là sáng suốt, đúng đắn song không phải là Đảng không có những sai lầm khuyết điểm. Hồ Chí Minh không phủ nhận điều đó vì "Đảng là người, Đảng là cán bộ, là đảng viên, tất nhiên có sai lầm" [1, 143]. Nhưng sai lầm của Đảng là có thể khắc phục, sửa chữa được và do vậy vai trò lãnh đạo của Đảng không thay đổi. Hồ Chí Minh viết: "Nhưng sai lầm của Đảng và của chúng ta khác hẳn với sai lầm của những bọn khác. Đảng thấy sai thì quyết tâm sửa chữa. Thời đế quốc, tư bản có bao giờ nói có sai lầm, xin sửa chữa đâu. Đảng là người, nên có sai lầm nhưng vì có chủ nghĩa Mác - Lênin, có mục đích phục vụ nhân dân, có phê bình và tự phê bình, cho nên kiên quyết sửa chữa" [1, 144]. Khi Đảng đã kiên quyết sửa chữa và đã sửa chữa được những sai lầm và khuyết điểm của mình thì Đảng nhất định sẽ lãnh đạo thành công cách mạng Việt Nam. Đó là lời giải thích của Hồ Chí Minh đối với sự nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng. 2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ gián tiếp phủ nhận bọn "Nhân văn - giai phẩm" "Nhân văn - giai phẩm" là tên gọi được viết tất cả tờ báo "nhân văn" và các tác phẩm "Giai phẩm mùa thu", "giai phẩm mùa đông", "giai phẩm mùa xuân" dùng để chỉ một liên minh những phần tử phản động, có tư tưởng chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Nhóm "nhân văn - giai phẩm", chúng là ai? "Nhân văn - giai phẩm" là một thứ liên minh gồm những phần tử phức tạp, những phần tử đó hoặc đã có lịch sử làm tay sai cho đế quốc và phong kiến, hoặc do quyền lợi giai cấp mà thù địch với địch (xuất thân từ tầng lớp trên trong xã hội), hoặc là những phần tử phản cách mạng Tờ-rốt-xkít, lại cũng bao gồm cả một số phần tử phản động trong giai cấp tư sản, một số văn nghệ sĩ bị nhiễm sâu tư tưởng của các giai cấp bóc lột. Khi tờ báo "Nhân văn" ra đời, tờ báo này chỉ ra được 5 số và bị đóng cửa ngày 15-12-1956, các phần tử này đã tập hợp, hình thành một nhóm chính trị phản động, hoạt động có kế hoạch, có chỉ đạo. Xuất hiện từ đầu năm 1956, tồn tại đến giữa năm 1958, hoạt động của bọn "Nhân văn - giai phẩm" diễn ra theo các bước: Bước một, từ mặt trận văn nghệ đả kích Đảng và chế độ ta. Bước hai, lợi dụng lúc khó khăn, ra mặt phản cách mạng đánh thẳng vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng, chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân, âm mưu gây biến động, chúng lợi dụng không khí phê bình, tự phê bình để phá hoại cách mạng. Bước ba, giấu mặt phá hoại, đưa người vào các cơ quan nghệ thuật, hội nhà văn để lũng đoạn, gây rối, xây dựng pháo đài chống cách mạng ở ở trường Đại học. Các quan điểm của nhóm "Nhân văn - giai phẩm" trên lĩnh vực văn nghệ thực chất quan điểm phản động, quan điểm nghệ thuật tư sản. Một là, chúng phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, đòi tự do độc lập của văn nghệ, "nghệ thuật vị nghệ thuật", thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động. Chúng đặt văn nghệ sĩ ra ngoài giai cấp, coi như văn nghệ sĩ tự thân cách mạng, là đã có sẵn cái gốc thiện, trong người đã sẵn khuynh hướng về cái tốt, đẹp, cái thật cho nên chỉ cần người văn nghệ sĩ tự do và chân thành nghe nội tâm mình thì sẽ thấy hết được cái tốt đẹp, cái thật ở đời. Chủ nghĩa cộng sản là thiên đường của tự do tư tưởng cho nên muốn là cộng sản chân chính phải để cho văn nghệ sĩ được tự do triệt để, chỉ nghe theo nội tâm của mình. Chúng lờ đi vấn đề giai cấp, làm như trong xã hội không có giai cấp, đấu tranh giai cấp. Người văn nghệ sĩ không dính dáng gì đến đấu tranh giai cấp. Hai là, nhóm "nhân văn - giai phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công - nông - binh, chúng chỉ nêu lên văn nghệ phục con người trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về với chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy. Ba là, hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa. Văn học XHCN là giả tạo, công chức, không có tác phẩm vĩ đại, không coi là nền văn nghệ tiên tiến trên thế giới. Thực chất là chúng phản đối XHCN, đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Bốn là, bọn "nhân văn - giai phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ mà chính xác là chúng đòi đưa quyền lãnh đạo vào tay bọn phản cách mạng. Đối với sự kiện nổi lên chống phá của nhóm "nhân văn - giai phẩm", Đảng ta đã kịp thời đấu tranh, phê phán các quan điểm, hành động phản cách mạng của chúng. Đã tự chấn chỉnh sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn nghệ, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối cách mạng của Đảng nhằm nâng cao tính Đảng trong các văn nghệ sĩ. Hồ Chí Minh mặc dù không có một tác phẩm nào, hoặc không trực tiếp đưa ra các quan điểm phê phán trực diện những luận điệu của bọn "nhân văn - giai phẩm" (có thể người viết chưa tìm thấy, hay chưa nghiên cứu kỹ) nhưng thông qua những tư tưởng của Người về văn hóa văn nghệ, có thể thấy Hồ Chí Minh đã hoàn toàn phủ nhận các quan điểm của bọn "nhân văn - giai phẩm". Bọn "nhân văn giai phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, phản đốivăn nghệ phục vụ công, nông binh. Nhưng theo Hồ Chí Minh, văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Hồ Chí Minh viết: "Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong" [2, 437]. Đối với các văn nghệ sĩ, Hồ Chí Minh kêu gọi: "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ từ" [2, 437]. Hoặc có lúc người viết: "Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông binh" [2, 437]. Bọn "nhân văn - giai phẩm" cho rằng văn nghệ sĩ là tự thân cách mạng, là đã có sẵn cái gốc thiện, trong người đã sẵn khuynh hướng về cái tốt, cái đẹp, cái thật. Chỉ cần người văn nghệ sĩ tự do và chân thành nghe nội tâm của mình thì sẽ thấy hết được cái tốt, cái đẹp, cái thật ở đời. Còn ở Hồ Chí Minh lại hoàn toàn ngược lại. Chỉ có thực tiễn cuộc sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn nghệ. Thực tiễn ấy cung cấp những chất liệu không bao giờ cạn cho văn nghệ sĩ, với tinh thần nhân văn và tài năng sáng tạo của mình, văn nghệ sĩ có thể nhào nặn, thăng hoa để tạo ra những tác phẩm có giá trị, có sức sống vượt qua giới hạn của không gian và thời gian. Hồ Chí Minh viết yêu cầu đối với chiến sĩ văn nghệ là phải "thật hòa mình với quần chúng" [2, 438] và không được quên rằng "... chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống" [2, 438]. Văn nghệ sĩ phải "liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân", để "hiểu thấu" tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân, cuộ sống lao động và tranh đấu của nhân dân. Rõ ràng là tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ và quan điểm của bọn "nhân văn - giai phẩm" về văn hóa văn nghệ là hoàn toàn đối lập nhau. Quan điểm văn nghệ gắn liền và phục vụ cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, giành lấy hạnh phúc của nhân dân lao động, văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy,... đã hoàn toàn phủ nhận các quan điểm sai trái, phản cách mạng của nhóm "nhân văn - giai phẩm". 2.6. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là một trong những vấn đề quan trọng và nổi bật. ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, trong rất nhiều bài viết, lời nói của mình, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, những tác hại, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, đồng thời Người cũng đề ra các biện pháp, phương pháp đấu tranh chống và khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là một trong những kẻ thù của cách mạng, Người viết: "Kẻ địch gồm có ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia [17, 287]. Nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân là do những tàn tích, ảnh hưởng của xã hội cũ, Hồ Chí Minh viết: "Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen... vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân" [17, 283]. Theo Người, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là một tất yếu trong cách mạng XHCN trong thời đại quá độ lên CNXH. Hồ Chí Minh viết: "Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa bình trong tập thể, trong xã hội. Do đó, chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt" [17, 282]. "Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi CNXH thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân" [3, 260]. Hồ Chí Minh giải thích rất rõ tác hại của chủ nghĩa cá nhân đối với cán bộ, đảng viên, đối với cách mạng. Người phân tích, cán bộ đảng viên có đạo đức, phẩm chất còn thấp kém là do: "Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ "không lo" mình vì mọi người mà chỉ muốn "mọi người vì mình". Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hóa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đáon, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh cụ thể. Họ không có tinh thân cố gắng vươn lên, không chịu học tập tiến bộ. Cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, cá nhân chủ nghĩa mà phạm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTieu luan.doc
Tài liệu liên quan