Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “ để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương:1- phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng ”
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động. “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức, hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định “ Việt Nam làm CM giải phóng dân tộc, đó là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. CM muốn thắng lợi phải đoàn kết toàn dân, phải làm cho sĩ, nông, công thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Trong sự nghiệp này phải lấy công nông là người chủ cách mệnh công nông là gốc cách mệnh”
Trong CM tháng 8 năm 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có tất cả”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi còn hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh nói: “đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11983 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam. Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm con đường mới. 1.2.2 CMTS là không triệt để:
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục, quốc gia trên thế giới. Người đã kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga, Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp. Người nhận thấy: CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, công nhân nỗi dậy khắp nơi. Chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
1.2.3 Con đường giải phóng dân tộc:
Hồ Chí Minh thấy được CM tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc CMVS, mà còn là một cuộc CM giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
*Ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của CM Tháng Mười Nga đến phong trào CM Việt Nam:
CM Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại-Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Thành công của CM Tháng Mười Nga đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến phong trào CM trên thế giới nói chung và CM Việt Nam, nói riêng. Những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất đầy đủ và hướng phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đi theo. Nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung trong tác phẩm “Đường cách mệnh” và tác phẩm “CM Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho dân tộc”. Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra tính triệt để của CM Tháng Mười Nga: “Trong thế giới bây giờ chỉ có CM Tháng Mười Nga là đã thành công và thành công đến nơi”. Tính triệt để của CM Tháng mười Nga đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức một cách rất sâu sắc. Đó là, chính quyền thuộc về tay đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Nếu chính quyền còn nằm trong tay “một bọn ít người”-bọn tư bản, thì CM không triệt để, “chưa đến nơi”. Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh tính triệt để của một cuộc CM còn thể hiện ở chỗ: giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột một cách triệt để và đem lại hạnh phúc, tự do và bình đẳng thực sự cho họ. Điều này, sau này, được Người thể hiện dưới dạng khát vọng lớn lao: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bực là làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” (5). Nhận xét này của của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lóe sáng khát vọng về xã hội tương lai-xã hội XHCN.
Từ nhận thức về tính triệt để của CM Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “CM Việt Nam muốn thành công phải đi theo con đường CM Tháng Mười Nga. Đây là một trong những bài học thành công của CM tháng Mười Nga. “Tinh thần CM triệt để”, theo Bác, một là tiến công kẻ thù một cách triệt để, hai là, thái độ tinh thần dũng cảm, kiên quyết đấu tranh, không ngại gian khổ hy sinh-Người chỉ rõ: “luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng CM, không sợ gian khổ, hy sinh, kiên quyết đấu tranh đến cùng vì độc lập dân tộc vì CNXH”. Vận dụng bài học này vào Việt Nam, Người chỉ rõ: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập”-CM Tháng Tám; “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”-Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến; “chúng ta quyết không sợ…Không có gì quý hơn độc lập tự do”-kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
“Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản”. Bài học này được chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách khá nhuần nhuyễn vào cách mạng Việt Nam. Trong quá trình tiến hành CM giải phóng dân tộc cũng như trong CM XHCN, một mặt chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, mặt khác chúng ta cũng thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế với các nước anh em (Lào, Campuchia, Trung Quốc…) và thế giới. Về bài học này, Người chỉ rõ: “…trong thời đại ngày nay, CM giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của của cách mạng vô sản, trong phạm vi toàn thế giới, CM giải phóng dân tộc phát triển thành CM XHCN thì mới giành thắng lợi hoàn toàn”. Lịch sử Việt Nam chứng minh nhận định trên của người là hoàn toàn đúng đắn.
CM Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với CM Việt nam, nói riêng và CM thế giới, nói chung. Một mặt cổ vũ tinh thần, mặt khác để lại những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những nhận xét rất sâu sắc, toàn diện về CM Tháng Mười Nga. Từ đó, Người lãnh đạo CM Việt Nam theo con đường mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra bằng cách vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý và đưa CM Việt Nam theo xu thế thời đại mà CM Tháng Mười Nga đã mở ra. Và thực tế lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong nhận xét và vận dụng những bài học CM Mười Nga vào CM Việt Nam của Bác.
Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin Người “hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba” chính vì Lênin và Quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”., Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa cung cấp của cải và binh lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc và thuộc địa. Vì thế giai cấp vô sản chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc.. Người ví CNĐQ như con đỉa 2 vòi, 1 vòi cắm vào chính quốc, 1 vòi vươn sang thuộc địa, muốn giết nó thì phải cắt 2 vòi, phải phối hợp CM chính quốc với thuộc địa. CM giải phóng thuộc địa và CM chính quốc là hai cánh của CM vô sản, muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS.
Trong bài Cuộc kháng Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của CM thế giới”.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà CM có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết CM của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CM”, “…chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Giống như mặt trời chói lọi, CM tháng Mười chiếu sáng năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa từng có cuộc CM nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế"
1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Các lực lượng lãnh đạo CM giải phóng dân tộc trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đều thất bại do chưa có một đường lối đúng đắn, chưa có một cơ sở lý luận dẫn đường. Các phong trào chống pháp trước năm 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái như: Duy Tân hội, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng,…chính vì những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản.
Từ thắng lợi của CM tháng 10 Nga do Đảng cộng sản lãnh đạo, người khẳng định: CM muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có đảng chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có công nhân làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức của Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lênin.
Nguyễn Aí Quốc phân tích và cho rằng: “những người giác ngộ và cả nhân dân ta đều nhận thấy: làm CM thì sống, không làm CM thì chết. Nhưng CM giải phóng dân tộc muốn thành công, theo Người, trước tiên phải có Đảng CM lãnh đạo. Đảng có vững, CM mới thành công. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. CM Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo CN Mác và CN Lênin”
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người câm lái có vững thuyền mới chạy.”
*Đảng cộng sản Việt Nam chính là người lãnh đạo duy nhất. Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác Lênin về Đảng cộng sản, Người cho rằng “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao dộng trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ Quốc và nhân dân.” Khi khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm định hướng cho việc xây dựng đảng cộng sản Việt Nam thành đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của CM Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước dù là đảng viên hay không, đều thật sự cảm nhận đảng cộng sản Việt Nam là đảng của Bác Hồ, là đảng của mình, đều gọi đảng “là đảng ta”. Hồ Chí Minh đã xây dựng một đảng CM tiên phong, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Ngay từ khi mới ra đời, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là một ưu điểm của đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với CM Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của CM .1.4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông.
1.4.1 CM là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức:
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “ để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương:1- phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…”
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động. “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức, hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định “ Việt Nam làm CM giải phóng dân tộc, đó là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. CM muốn thắng lợi phải đoàn kết toàn dân, phải làm cho sĩ, nông, công thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Trong sự nghiệp này phải lấy công nông là người chủ cách mệnh… công nông là gốc cách mệnh”
Trong CM tháng 8 năm 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có tất cả”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi còn hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh nói: “đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: “ dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi. Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được. Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc”.
1.4.2 Lực lượng của CM giải phóng dân tộc:
Để đoàn kết toàn dân tộc, Nguyễn Aí Quốc chủ trương xây dựng Mặt Trận dân tộc thống nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do. Khi soạn thảo cương lĩnh đầu tiên của Đảng, trong Sách Lược Vắn Tắt, NguyễnAí Quốc chủ trương: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa mặt phản CM thì phải lợi dụng ít lâu rồi mới cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản CM thì phải đánh đổ”. Sách lược này phải được thực hiên trên quan điểm giai cấp vững vàng- như người xác định: “công nông là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công nông, 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi, và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào được nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”.
Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực CM của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó Người khẳng định: “công nông là gốc cách mệnh”. Khẳng định vai trò động lực CM của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.
Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo CM giải phóng dân tộc, người đề xuất với Đảng thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh. Người chủ trì Hội nghị đã đề ra nghị quyết xác định “ lực lượng CM là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc pháp- nhật xâm chiếm nước ta”. Tháng 9/ 1955,
Hồ Chí Minh khẳng định: “ Mặt Trận Việt Minh đã giúp CM tháng 8 thành công”.
1.5 CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM VS ở chính quốc.
Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về CM giải phóng dân tộc với CMVS:
-Theo Mác- Ănghen: CMVS ở chính quốc là cần thiết và được thực hiện trước.
- Theo Lênin: CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc.
-Còn theo Hồ Chí Minh: CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động và có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc.
Cơ sở đưa ra luận điểm:
-Hồ Chí Minh vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra: “sự giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp công nhân”, để đưa đén khẳng định: “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Vì thế nên công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa phải do chính các dân tộc đó thực hiện.
-Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là được dựa trên sự áp bức bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn CNTB. Hơn nữa theo đánh giá của Hồ Chí Minh trong giai đoạn ĐQCN, sự tồn tại và phát triển của CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa. Vì vậy, cuộc CMVS ở chính quốc trước chẳng khác nào đánh rắn đằng đuôi.
-Theo Hồ Chí Minh chính CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa có sức bật thuận lợi hơn vì:
+Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với CNĐQ ngày càng gay gắt vì vậy mà tiềm năng CM của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.
+Tinh thần yêu nước và CNTD chân chính của các dân tộc thuộc địa là một sức mạnh tiềm ẩn của CM giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được CN Mac-Lênin giác ngộ và soi đường thì CM giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở chính quốc.
+Thuộc địa là khâu yếu của chủ nghĩa tư bản nên CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa dễ dàng giành chính quyền hơn.
Khi CN Đế quốc xâm lược thuộc địa, CM giải phóng dân tộc có khuynh hướng phát triển, nhưng lúc đó quốc tế cộng sản lại đánh giá thấp CM giải phóng thuộc địa. Nghiên cứu luận cương của Lê Nin về CM thuộc địa và xuất phát từ áp bức của CNĐQ với thuộc địa, Hồ Chí Minh lập luận về nguyên nhân của CM thuộc địa : " Người Đông Dương không được học, nhưng đau khổ, đói nghèo và sự bạo ngược của CNTDlà người thầy dạy mầu nhiệm của họ; người Đông Dương sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng khi thời cơ cho phép và họ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy dạy của họ.""Không, người Đông Dương không chết, người Đông Duơng sống mãi. Bên cạnh sự phục tùng tiêu cực, Người Đông Dương sống âm ỷ và sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến."
Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: “Thuộc địa là mắc xích yếu nhất trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa luôn có tinh thần yêu nước, căm thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến”. Vì vậy, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “CM thuộc địa không những không phụ thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM chính quốc và khi hoàn thành CM thuộc địa họ có thể giúp đỡ giai cấp vô sản chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. CM thuộc địa phải chủ động giành thắng lợi trước CMVS chính quốc, CM thuộc địa chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa, phải đem sức ta tự giải phóng cho ta”.
Tóm lại, đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp CM giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà CM Việt Nam giành thắng lợi vĩ đại và góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong thời kỳ đó.
1.6 CM giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
Theo CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai cấp thống trị. Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy CM muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền. Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực lượng "chính trị" của quần chúng và lực lượng "vũ trang" với 2 hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau.
Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CMVS thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng hộ của CMVS thế giới, CM Nga, thậm chí với CMVS Pháp. Tư tưởng về CM bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang được Hồ Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ trương của Đảng tại hội nghị trung ương VIII (5/1941), Người kết luận: cuộc CM Đông Dương được kết liễu bằng khởi nghĩa vũ trang. Căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng vào thiên thời, địa lợi. Hồ Chí Minh bàn tới khởi nghĩa từng phần, mở rộng cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn giành chính quyền trong cả nước. Từ sau Hội nghị trung ương VIII, Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, lực lượng vũ trang, lực lượng Chính trị, chuẩn bị tổng kết khởi nghĩa. Thắng lợi CM tháng 8 đã chứng minh tính đúng đắn của TTHCM về con đường bạo lực CM.
Sáng tạo và phát triển nguyên lý CN Mac – Lênin về con đường bạo lực ở Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ:
+ Khởi nghĩa vũ trang đương nhiên phải dùng vũ khí, phải chiến đấu bằng lực lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là nhân dân vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là một cuộc đáu tranh to tát về chính trị và quân sự, việc quan trọng làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại.
+ Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là tiến hành đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang khi điều kiện cho phép, thực hành đấu tranh ngoại giao, đồng thời phải biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao để giành và giữ chính quyền.
2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA *Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH –chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Đảng ta đã khẳng định, đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng"(1). Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay đổi, dù trong bất cứ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.
Khắc sâu bài học về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã thuộc về nhân dân ta, công cuộc đổi mới trong thời gian qua, càng khẳng định bản lĩnh chính trị đúng đắn, vững vàng của Đảng ta về kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn mới. Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường CMVS, trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc lúc này, đối với chúng ta, chính là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, ở mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học... Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách thực tế, vững chắc trong hội nhập kinh tế quốc tế rất phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh báo tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.
Đổi mới để phát triển và phát triển để đổi mới mạnh mẽ và vững chắc hơn là nhận thức căn bản và biện chứng về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc. Tập trung cho tăng trưởng mạnh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là làm cho cơ sở vật chất của CNXH ngày một nhiều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc (new).doc