Tiểu luận Tìm hiểu và đưa ra một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm

Theo số liệu thống kê của TA dân sự - TANDTC năm 2008 về tình hình giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy trong số các vụ án dân sự mà TA thụ lý thì số các vụ án mà TA phải ra quyết định đình chỉ chiếm 1 tỉ lệ không nhỏ:

- Đối với các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự do TA cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì số vụ đình chỉ so với số vụ đã giải quyết là 13.343/72494 chiếm tỷ lệ là 18,4%tổng số vụ việc đã được giải quyết.Ở các Tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì số vụ án đình chỉ ở cấp sơ thẩm là 479/2068 vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 0,68%.

- Số vụ án đình chỉ ở TA cấp phúc thẩm ở TAND cấp tỉnh là 929/12529 vụ đã được giải quyết chiếm tỷ lệ 7,24% (theo tài liệu tham khảo Hội nghị triển khai công tác năm 2009 của ngành TAND (trang 3)).

Các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc vận dụng ĐCGQVADS trên thực tiễn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật vẫn còn nảy sinh nhiều bất cập do sự không nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ, sự thiếu sót, bất hợp lý thậm chí là mâu thuẫn trong các quy định về căn cứ ĐCGQVADS Đây là những nguyên nhân dẫn tới những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về vấn đề ĐCGQVADS tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Những hạn chế, bất cập đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật cho phù hợp. Vì vậy bài viết xin đưa ra một số ý kiến tham khảo như sau:

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu và đưa ra một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục viết tắt ĐCGQVADS : Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự GQVADS : Giải quyết vụ án dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự TA : Toà án TADNTC : Toà án nhân dân tối cao HĐXX : Hội đồng xét xử A. LỜI MỞ ĐẦU Bên cạnh những kết quả đạt được thì những quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm còn có nhiều vấn đề cần được xem xét cho thoả đáng với thực tiễn áp dụng. Do đó, nội dung bài tiểu luận xin đi vào tìm hiểu và đưa ra một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. B. PHẦN NỘI DUNG I. Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm 1. Khái niệm chung về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: * Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (ĐCGQVADS) là việc Tòa án quyết định ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý khi có những căn cứ do pháp luật quy định, sau khi quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc đó nữa, trừ những trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy định khác. * Việc ĐCGQVADS có những đặc điểm sau: ĐCGQVADS phải dựa trên những căn cứ mà pháp luật đã quy định trước chứ không được tiến hành tùy tiện theo ý chí chủ quan của tòa án; ĐCGQVADS làm cho hoạt động tố tụng GQVADS đã thụ lý của Tòa án được ngừng lại và Tòa án không GQVADS đó nữa; ĐCGQVADS đã làm chấm dứt việc GQVADS ở một giai đoạn tố tụng nào đó nhưng nó không phải là một quyết định về nội dung của vụ án dân sự mà chỉ đơn thuần là một quyết định về tố tụng làm chấm dứt việc GQVADS mà Tòa án đã thụ lý; Việc ĐCGQVADS có thể được tiến hành ở Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm, Giám đốc thẩm và Tái thẩm. Do vấn đề ĐCGQVADS ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm trên thực tế phổ biến hơn cả vì vậy trong nội dung bài tiểu luận này chỉ xin nghiên cứu về vấn đề ĐCGQVADS ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm. 2. Căn cứ ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Căn cứ ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm được quy định tại Điều 192 BLTTDS 2004: “1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; d) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án; đ) Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án; e) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; g) Ðã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; h) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. 2. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Ðiều 168 của Bộ luật này.” Đối với trường hợp ĐCGQVADS tại Tòa án cấp phúc thẩm cần phải phối hợp với các căn cứ tại: Ðiều 269. Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm: “1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. 2. Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ luật này quy định nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.” Và Ðiều 278. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án: “Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Ðiều 192 của Bộ luật này.” Ngoài ra, cần xem xét các trường hợp khác mà pháp luật quy định tại Nghị quyết 02/2006 NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao (tại mục 10 phần II của NQ 02/2006 NQ-HĐTP) 3. Thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm a) Ở Tòa án cấp sơ thẩm * Thẩm quyền và thủ tục: trong quyết định chuẩn bị xét xử có căn cứ được quy định tại Điều 192 BLTTDS thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án quyết định, tại phiên tòa, việc ra quyết định ĐCGQVADS phải do HĐXX quyết định và được thông qua tại phòng nghị án theo quy định tại khoản 2 Điều 210. Việc ĐCGQVADS được thể hiện bằng quyết định ĐCGQVADS. Nội dung của quyết định được quy định cụ thể tại nghị quyết số 02/2006 NQ-HĐTP. * Hậu quả pháp lý: theo quy định tại Điều 193 BLTTDS khi có quyết định ĐCGQVADS thì đương sự không có quyền khởi kiện lại, trừ các trường hợp sau: - Người khởi kiện đã rút đơn khởi kiện và được tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện…tuy nhiên, khi khởi kiện lại phải có thời hiệu khởi kiện và người khởi kiện có quyền khởi kiện. - Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt. - Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc GQVADS đó có liên quan. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã trong vụ án đó không bị tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì có quyền khởi kiện lại. Đối với tiền tạm ứng án phí khi tòa án ra quyết định ĐCGQVADS thì: trường hợp toàn án ra quyết định theo các căn cứ ở khoản 1 Điều 192 thì tiền tạm ứng án phí các đương sự đã nộp được sung công quỹ nhà nước; nếu thuộc khoản 2 Điều 192 thì tòa án trả lại cho đương sự. Quyết định ĐCGQVADS có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, vì vậy, trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định ĐCGQVADS Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. b) Ở cấp phúc thẩm * Thẩm quyền và thủ tục: các căn cứ ĐCGQVADS có thể được phát hiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa Phúc thẩm. Tuy nhiên, ĐCGQVADS tại Tòa án phúc thẩm được tiến hành khi đã có bản án sơ thẩm, do đó, việc ĐCGQVADS trong thủ tục phúc thẩm là quyết định “số phận” pháp lý của bản án sơ thẩm nên nó phải được quyết định tại phiên tòa phúc thẩm. Thẩm quyền ĐCGQVADS chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm theo quy định tại Điều 269 và Điều 278 BLTTDS. Nội dung, mẫu quyết định được quy định cụ thể tại nghị quyết số 05/2006 NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Đối với trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện ở Tòa án cấp phúc thẩm thì cần phải có sự đồng ý của bị đơn mới có thể ĐCGQVADS. Khoản 1 Điều 269 BLTTDS quy định: trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết như sau: + Nếu bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận yêu cầu rút đơn khởi kiện của nguyên đơn + Nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. HĐXX ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và ĐCGQVADS. * Hậu quả pháp lý: theo quy định tại Điều 278 BLTTDS thì HĐXX phúc thẩm phải “hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Ðiều 192 của Bộ luật này.” Theo đó, trong quá trình GQVADS tại tòa án cấp sơ thẩm thì các căn cứ này đã xuất hiện và tồn tại nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã không phát hiện để có quyết định ĐCGQVADS theo quy định của pháp luật mà tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án, vì vậy, khi xem xét vụ án theo thủ tục phúc thẩm, tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra các căn cứ được quy định tại Điều 192, sẽ hủy bản án sơ thẩm và ĐCGQVADS. II. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án sơ thẩm, phúc thẩm Theo số liệu thống kê của TA dân sự - TANDTC năm 2008 về tình hình giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy trong số các vụ án dân sự mà TA thụ lý thì số các vụ án mà TA phải ra quyết định đình chỉ chiếm 1 tỉ lệ không nhỏ: - Đối với các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự do TA cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì số vụ đình chỉ so với số vụ đã giải quyết là 13.343/72494 chiếm tỷ lệ là 18,4%tổng số vụ việc đã được giải quyết.Ở các Tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì số vụ án đình chỉ ở cấp sơ thẩm là 479/2068 vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 0,68%. - Số vụ án đình chỉ ở TA cấp phúc thẩm ở TAND cấp tỉnh là 929/12529 vụ đã được giải quyết chiếm tỷ lệ 7,24% (theo tài liệu tham khảo Hội nghị triển khai công tác năm 2009 của ngành TAND (trang 3)). Các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc vận dụng ĐCGQVADS trên thực tiễn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật vẫn còn nảy sinh nhiều bất cập do sự không nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ, sự thiếu sót, bất hợp lý thậm chí là mâu thuẫn trong các quy định về căn cứ ĐCGQVADS… Đây là những nguyên nhân dẫn tới những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về vấn đề ĐCGQVADS tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Những hạn chế, bất cập đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật cho phù hợp. Vì vậy bài viết xin đưa ra một số ý kiến tham khảo như sau: 1. Sử dụng các quy định về thuật ngữ trong BLTTDS theo hướng thống nhất thuật ngữ. Theo hướng dẫn tại mục 10 phần II nghị quyết số 02/2006 NQ-HĐTP TANDTC 12/5/2006 thì TA ra quyết định “đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án dân sự” trong trường hợp tất cả các đương sự đều rút yêu cầu của mình. Trong trường hợp ngược lại thì TA chỉ “ĐCGQVADS đối với yêu cầu của đương sự đã rút” đồng thời tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung đối với các yêu cầu còn lại của đương sự khác. Việc sự dụng thuật ngữ này chưa thực sự hợp lý. Ngoài ra, theo quy định tại phần III mục 7 của nghị quyết số 02/2006 thì thuật ngữ  “đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của đương sự đã rút” lại được sử dụng lại. Do vậy, để đơn giản hóa và sử dụng thống nhất các thuật ngữ xin kiến nghị sửa đổi các thuật ngữ liên quan trong BLTTDS theo hướng sau: thuật ngữ “đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc việc dân sự” sẽ được sử dụng nếu tất cả các đương sự đều rút đơn yêu cầu của mình. Nếu một trong số các đương sự có đương sự rút, có đương sự không thì không phân biệt việc rút đơn trước khi mở phiên tòa hay tại phiên tòa sơ thẩm, thuật ngữ “đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự” sẽ được sử dụng. 2. Bổ sung căn cứ ĐCGQVADS nếu bị đơn là cá nhân chết nhưng không để lại tài sản thừa kế. Xét về bản chất thì sự kiện người có nghĩa vụ chết không để lại di sản là căn cứ để chấm dứt việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do pháp luật đã bỏ sót không quy định căn cứ đình chỉ này trong luật, vì vậy xin kiến nghị bổ xung vào Điều 192 quy định: TA ra  quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nếu nguyên đơn chết mà không để lại tài sản. 3. Bổ sung quy định hướng dẫn việc xử lý trong trường hợp tranh chấp về tài sản những nguyên đơn chết mà không có người thừa kế. Do không giải thích cụ thể nên dẫn tới hiện tượng hiểu và vẫn dụng không đúng quy định tài điểm a khoản 1 Điều 192 “Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế”để ra quyết định ĐCGQVADS trong trường hợp nguyên đơn có tài sản tranh chấp chết nhưng không có người thừa kế tài sản. Việc vận dụng như trên là không đúng với tinh thần của Điều 192, vì quy định này không được áp dụng cho các quan hệ về nhân thân mà quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn không được thừa kế. Đối với trường hợp trên thì đây là trường hợp tranh chấp về tài sản, nguyên đơn chết,quyền, nghĩa vụ tài sản được thừa kế nhưng không có người thừa kế thì theo quy định tại Điều 66 BLDS  2005 tài sản sẽ thuộc về nhà nước. Do vậy, kiến nghị bổ sung quy định này như sau: đối với vụ án tranh chấp về tài sản mà nguyên đơn chết nhưng không người thừa kế tài sản thì TA không đình chỉ mà vẫn tiến hành GQVA. Nếu quyết định tài sản thuộc về quyền sở hữu,sử dụng của nguyên đơn thì tài sản này thuộc về nhà nước quản lý. 4. Sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS về căn cứ ĐCGQVADS theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng đối với việc dân sự. Căn cứ này sẽ được vận dụng tương tự đối với việc ĐCGQVADS trong trường hợp người yêu cầu rút đơn yêu cầu  hoặc người yêu cầu không có quyền yêu cầu. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc đình chỉ ĐCGQVADS thì kiến nghị sửa đổi điểm c  và d theo hướng xác lập căn cứ ĐCGQVADS như sau: Đương sự đã khởi kiện, yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc người đại diện của đương sự  đã thực hiện việc khởi kiện rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu nhưng nguyên đơn, người yêu cầu không yêu cầu TA tiếp tục giải quyết vụ việc. 5. Sửa đổi bổ sung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng đối với việc dân sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 192 và điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS thì TA ĐCGQVADS nếu sau khi đã thụ lý Vụ án dân sự mới phát hiện được “thời hiệu khởi kiện đã hết”. Căn cứ này có nghĩa là: khoảng thời gian đó do pháp luật quy định cho đương sự có quyền yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã hết. Vì TA đã thụ lý vụ án nên khi phát hiện ra căn cứ này TA sẽ ra quyết định ĐCGQVADS, không giải quyết yêu cầu của đương sự đó nữa. Ở đây, ý kiến cho rằng căn cứ này sẽ được vận dụng tương tự đối với việc đình chỉ giải quyết việc dân sự trong trường hợp thời hiệu yêu cầu đã hết. Do vậy, cần sửa đổi quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS theo hướng TA trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu nếu thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu đã hết. Trường hợp sau khi đã thụ lý vụ án, TA mới phát hiện căn cứ này thì TA sẽ ra quyết định ĐCGQVADS. 6. Sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS theo hướng loại bỏ sự trùng lặp  và sắp xếp lại căn cứ “người khởi kiện không có quyền khởi kiện” cho phù hợp. Căn cứ “người khởi kiện không có quyền khởi kiện” dường như được xếp cùng nhóm với căn cứ “người khởi kiện rút đơn yêu cầu khởi kiện”. Điều này là không hợp lý. Căn cứ này lẽ ra nên xếp vào nhóm căn cứ TA đã thụ lý vụ án khi không có đủ điều kiện thụ lý mà pháp luật quy định (loại bỏ khỏi khoản 1 Điều 192) để tránh sự trùng lặp với căn cứ tại khoản 1 Điều 167 và phù hợp với lý luận hơn. Tương tự, đối với việc đình chỉ giải quyết việc dân sự trong trường hợp người yêu cầu rút đơn yêu cầu hoặc người yêu cầu không có quyền yêu cầu. Vì vậy, bên cạnh việc loại bỏ sự trùng lặp thì cần sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 168 theo hướng: người khởi kiện, người yêu cầu không có quyền khởi kiện, yêu cầu TA giải quyết vụ việc. 7. Sửa đổi quy định tại điểm d khoản 1 Điều 192 theo hướng cụ thể hóa hơn ý chí của đương sự trong việc yêu cầu TA giải quyết vụ án dân sự. BLTTDS chưa quy định rõ ràng khi dùng cụm từ  “không yêu cầu TA tiếp tục giải quyết vụ án”. Trường hợp đương sự không thông bào kết quả của sự tự thỏa thuận cho TA hoặc đương sự tự thỏa thuận xong và không đến TA để yêu cầu không tiếp tục GQVA nữa thì Ta không thể biết được để ra quyết định ĐCGQVADS. Sẽ hợp lý hơn nếu quy định sửa đổi tại điểm d khoản 1 Điều 192 theo hướng cụ thể hóa hơn ý chí của đương sự trong việc yêu cầu TA GQVADS và mở rộng phạm vi áp dụng đối với việc dân sự như sau: các đương sự đã tự thỏa thuận và yêu cầu TA không tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự. 8. Về sửa đổi quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 về căn cứ ĐCGQVADS theo hướng làm rõ hơn căn cứ suy đoán là đương sự đã từ bỏ việc kiện, yêu cầu. Kiến nghị: sẽ hợp lý hơn nếu sử dụng quy định này theo hướng sau nguyên đơn, người yêu cầu đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện, yêu cầu và TA sẽ ra quyết định ĐCGQVADS. 9. Sửa đổi khoản 2 Điều 192 theo hướng không quy định căn cứ tại điểm d khoản 1 Điều 168 BLTTDS là lý do để ĐCGQVADS. Thông thường người khởi kiện có nghĩa vụ đóng tiền tạm ứng án phí. Vì vậy, nếu người khởi kiện không thuộc trường hợp miễn nộp tiền tạm ứng phí hoặc án phí thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, đương sự phải đến làm thủ tục nộp tạm ứng án phí, nếu không đến mà không có lý do chính đáng thì TA sẽ không thụ lý vụ án. Trường hợp thiếu sót mà TA đã thụ lý vụ án thì  phải ĐCGQVADS đó. Tuy nhiên, thực tế thì khả năng này là rất hiếm khi xảy ra vì không có TA nào lại thụ lý vụ án khi mà người khởi kiện không đến TA để làm thủ tục thụ lý. Nếu đương sự đến làm thủ tục quá hạn mà không vi phạm các điều kiện khác của việc thụ lý thì cũng không nên quan niệm việc thụ lý của TA cần phải được hủy bỏ thông qua quyết định ĐCGQVADS. 10. Sửa đổi bổ sung quy định về quyền khởi kiện, quyền yêu cầu lại khi TA đã quyết định ĐCGQVADS nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân. Ở đây cần ghi nhận, bổ sung quyền khởi kiện, quyền yêu cầu lại khi TA đã ra quyết định ĐCGQVADS vì một trong những lý do sau: Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; TA thụ lý vụ việc khi chưa có đủ điều kiện khởi kiện; Chủ thể có đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự rút đơn yêu cầu hoặc các đương sự đã tự hòa giải; Người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Vì vậy, cần sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của ĐCGQVADS tại khoản 1 Điều 193 theo hướng: khi có quyết định ĐCGQVADS, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu TA giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp quy định tại điểm c, e, và g khoản 1 Điều 192 và khoản 2 Điều 192 của BLTTDS và các trường hợp pháp luật có quy định khác. C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Việc ĐCGQVADS nhằm khắc phục những sai lầm do việc thụ lý vụ án không đúng đem lại. Đối với những trường hợp việc thụ lý vụ án là đúng pháp luật nhưng trong quá trình giải quyết đã phát sinh một số sự kiện làm cho đối tượng của vụ án cần giải quyết tại Tòa án không còn… thì việc tòa án ra quyết định ĐCGQVADS có ý nghĩa giải phóng cho các bên đương sự, đặc biệt là bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khỏi việc tham gia tố tụng vốn bị coi là một nghĩa vụ bắt buộc đối với họ. Tuy nhiên, việc ĐCGQVADS không đúng pháp luật cũng có thể dẫn tới quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người có yêu cầu sẽ không được Tòa án xem xét giải quyết và quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của họ sẽ không bị mất nếu như các quyết định về quyền khởi kiện, quyền yêu cầu lại không được pháp luật ghi nhận. Qua bài tiểu luận này cho thấy việc nghiên cứu nhằm tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cần được quan tâm thoả đáng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2005. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb Tư pháp, 2004. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Nguyễn Triều Dương, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Phạm Hải Tâm, người hướng dẫn: TS. Trần Anh Tuấn, Hà Nội, 2010. Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự : Khoá luận tốt nghiệp, Hoàng Thị Phương Liên; Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Hà Nội, 2010. Một số vướng mắc trong việc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo điểm c khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, Võ Thanh Bình, Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 12/2010, Đình chỉ xét xử phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án cấp phúc thẩm, Nguyễn Thị Thu Hà,Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 7/2010.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài học kỳ TTDS- pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.doc
Tài liệu liên quan