Tiểu luận Tìm hiểu về các tập đoàn kinh tế Việt Nam, mô hình công ty mẹ công ty con đã được áp dụng tại Việt Nam

Chỉ sau 1 năm hoạt động, những kết quả bước đầu về sản xuất kinh doanh của các công ty mẹ khá tốt: doanh thu sau khi chuyển đổi tăng cao, bình quân 48%, nộp ngân sách tăng 9%, lợi nhuận tăng 24%;tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn của các công ty mẹ đạt 10,83%; số lao động của các công ty con sau khi sắp xếp, tuyển dụng tăng thêm 11%. Các đơn vị này cũng thừa nhận, việc chuyển sang hoạt động theo công ty mẹ - công ty con đã làm thay đổi bản chất, phương thức tổ chức và phương thức quản lí điều hành từ kiểu hành chính(cấp trên – cấp dưới) sang phương thức đầu tư chi phối về vốn, công nghệ, thương hiệu đối với các công ty con.

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2494 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về các tập đoàn kinh tế Việt Nam, mô hình công ty mẹ công ty con đã được áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong điều hành của tập đoàn. Các doanh nghiệp là thành viên của tập đoàn đều có pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền lực cao nhất như hội đồng thành viên(với công ty TNHH), đại hội cổ đông(với công ty cổ phần). Theo thỏa thuận giữa các thành viên của tập đoàn, chủ tịch hội đồng thành viên, hội đồng quản trị các công ty trong tập đoàn tập hợp lại thành hội đồng chủ tịch tập đoàn. Hội đồng chủ tịch bầu ra chủ tịch tập đoàn. Hội đồng chủ tịch không thực hiện chức năng điều hành cụ thể đối với quá trình sản xuất, kinh doanh và tổ chức của các công ty thành viên, do đó, không có chức danh tổng giám đốc tập đoàn. Sở hữu vốn trong các tập đoàn kinh tế cũng rất đa dạng. Trước hết, vốn trong tập đoàn là do các công ty thanh viên làm chủ sở hữu, bao gồm cả vốn tư nhân và vốn nhà nước. Quyền sở hữu vốn trong tập đoàn cũng tùy thuộc vào mức độ phụ thuộc của các công ty thành viên vào công ty mẹ và thường ở hai cấp độ: + Cấp độ thấp hay còn gọi là liên kết mềm, vốn của công ty mẹ, công ty con, công ty cháu… là của từng công ty. + Cấp độ cao hay còn gọi là liên kết cứng là công ty mẹ tham gia đầu tư vào các ông ty con, biến các công ty con, con ty cháu thành công ty TNHH một thành viên do công ty mẹ làm chủ sở hữu hoặc công ty mẹ chiếm trên 50% vốn điều lệ(với công ty TNHH), giũ cổ phần chi phối(với công ty con ,cháu là công ty cổ phần).Trên thực tế, không có một tập đoàn kinh tế nào chỉ có quan hệ về sở hữu vốn theo một cấp độ mà đan xen cả hai cấp độ tùy theo từng trường hợp trong quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con. 4.Hiệu quả hoạt động. 4.1 Sử dụng vốn Tám tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước sở hữu gần 400.000 tỉ đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại các doanh nghiệp nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, khoảng 60% tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các đơn vị này là 17%, 28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối năm 2007, tổng số vốn chủ sở hữu của các tập đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26% `4.2. Đầu tư trái nghề chính. Tại một hội nghị hồi tháng 4-2008 ở Hà Nội, Bộ Tài chính cho biết tính đến cuối năm 2007, tổng giá trị đầu tư ra ngoài các lĩnh vực kinh doanh chính của 70 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là gần 117.000 tỉ đồng, trong đó đầu tư vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng và bất động sản là hơn 23.400 tỉ đồng. 4.3.Tình hình nợ Có nhiều số liệu khác nhau và nhiều cách nhìn nhận khác nhau về tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước mà các tập đoàn kinh tế nhà nước và các Tổng công ty nhà nước là các chủ thể chiếm tỷ trọng tuyệt đối về vốn. Tỷ lệ nợ phải trả 8 tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước lên đến 1,36 lần, tính đến cuối năm 2007 và nợ của các tập đoàn kinh tế vẫn trong vòng kiểm soát. Tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước rất cao, cá biệt lên đến 42 lần trên vốn của chủ sở hữu. So với mức tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế quốc tế là chỉ từ 1 đến 3 lần thì tỷ lệ nợ vay/vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế Việt Nam nếu được công bố sẽ khiến "thế giới phải giật mình", có đại biểu quốc hội đặt nghi vấn cho rằng nguyên nhân của việc thiếu rõ ràng trong bảo lãnh tín dụng, độc quyền, khó kiểm soát nợ của doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước có gốc gác từ lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm. Hoạt động yếu kém, sử dụng quá nhiều nguồn lực, được quá nhiều ưu ái, ưu đãi kể cả lúc kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn,cạnh tranh không bình đẳng, không làm tròn vai trò nòng cốt của nền kinh tế thậm chí đã trở thành là gánh nặng của nền kinh tế, lũng đoạn thông qua quan hệ, coi trọng lợi ích nhóm, các tập đoàn kinh tế được xem là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao vào năm 2008 5.Mô hình công ty mẹ - công ty con. Công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lí độc lập, và nếu công ty con là công ty có trách nhiệm hữu hạn thì công ty mẹ chỉ chịu trách nhiệm đối với phần vốn góp hay cổ phần của mình mà thôi, nhưng do mối quan hệ có tính chất chi phối các quyết định của công ty con,nên luật pháp nhiều nước bắt buộc công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về những ảnh hưởng của công ty mẹ đối với công ty con. Thí dụ, luật công ty của Cộng hòa liên bang Nga quy định nếu công ty mẹ đưa ra chỉ thị buộc công ty con phải thực hiện theo một cam kết nào đó giữa công ty mẹ và công ty con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới. Ngoài ra, theo luật pháp của nhiều nước và theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì công ty mẹ phải có trách nhiệm trình báo cáo tài chính tập trung hay hợp nhất tại đại hội cổ đông của công ty mẹ,trừ trường hợp công ty mẹ là công ty con của công ty khác hoặc hoạt động của công ty con quá khác biệt với công ty mẹ; bởi lẽ,dù là hai thực thể pháp lí độc lập nhưng trên thực tế chúng là những công ty liên kết, một thực thể kinh tế hợp nhất. Nguồn tiền mặt công ty con Công ty mẹ Vốn vay Khoản phải thu Tồn Kho Bán trả chậm Các dự án Số dư khoản phải trả Tiền chi mua hàng Vật tư và nguyên Vật liệu 5.1.Sự giống và khác nhau giữa mô hình tổng công ty và đơn vị thành viên và mô hình công ty mẹ công ty con: Sự giống nhau: -Tổng công ty là cổ đông -Có quyền quyết định đến hoạt động của công ty thành viên bằng nhiều cơ chế khác nhau. b.Sự khác nhau: - Với mô hình tổng công ty thì cơ cấu tổ chức của công ty (một nhóm các công ty ) bị giới hạn có 3 cấp – Tổng công ty, công ty và xí nghiệp hạch toán phụ thuộc(hoặc tương đương). Trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ công ty con thì tầng nấc trong cơ cấu tổ chức, về mặt lí thuyết, là không giới hạn- công ty me công ty con,công ty cháu... -Về nguyên tắc, quan hệ công ty mẹ đối với công ty con là trách nhiệm hữu hạn, còn quan hệ giữa tổng công ty và đơn vị thành viên là trách nhiệm vô hạn. - Về mặt pháp lí, các đơn vị thành viên của tổng công ty và công ty là những pháp nhân độc lập chưa đầy đủ ,vì đối với một số hoạt động của đơn vị thành viên, luật pháp yêu cầu phải có ủy quyền chính thức của doanh nghiệp chủ quản như lĩnh vực đầu tư,tài chính, tổ chức cán bộ...Trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ-công ty con, các doanh nghiệp là những pháp nhân đầy đủ. -Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập trong mô hình tổng công ty không phải do tổng công ty quyết định thành lập, mặc dù về mặt pháp lí tổng công ty là chủ sở hữu.Trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ công ty con thì công ty mẹ là một doanh nghiệp có sản phẩm, có khách hàng, có thị trường. - Những quy chế, quy định đối với một số lĩnh vực hoạt động của các thành viên trong tổng công ty thường có tính pháp quy; trong khi đó, những quy chế, quy định của các thành viên trong công ty mẹ- công ty con hoàn toàn mang tính chất quản lí. - Quá trình hình thành tổng công ty cho thấy, theo mô hình tổng công ty thì ít nhất phải có hai công ty thành viên tồn tại trước khi có tổng công ty, trong khi đó theo mô hình công mẹ- công ty con thì công ty mẹ thường phải tồn tại trước, sáng lập hoặc tham gia sáng lập ra công ty con(trừ trường hợp mua lại) - Trong mô hình hiện hữu, tổng công ty(công ty) là chủ sở hữu của cả sản nghiệp(cả tài sản có và tài sản nợ) của công ty thành viên,tức vừa sở hữu vốn vừa sở hữu tài sản (về thực chất) và tài sản (vốn) công ty con là tài sản (vốn) của công ty mẹ; tron khi đó, theo mô hình công ty mẹ - công ty con ,công ty mẹ chỉ sở hữu phần vốn đầu tư trong công ty con mà thôi và vốn của công ty con là tài sản của công ty mẹ(trong đầu tư dài hạn) - Mô hình tổng công ty- công ty thành viên không cho phép huy động vốn một cách có hiệu quả, không cho phép tổng công ty(công ty ) thay đổi cơ cấu vốn đầu tư trong các doanh nghiệp thành viên một cách linh hoạt. 5.2.Đặc điểm chung của công ty mẹ công ty con: Là một tổ hợp sản xuất kinh doanh đa dang, đa sở hữu. Là một tổ hợp lấy liên doanh góp vốn, hoặc sở hữu chung vốn làm nhân tố quyết định sự liên kết dưới hình thức công ty cổ phần. Là một tổ chức kinh doanh bao gồm nhiều doanh nghiệp nhưng có một doanh nghiệp giữ vai trò chi phối, chỉ huy thống nhất đó là công ty mẹ. Công ty mẹ đều là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có tỷ lệ vốn góp chi phối, các công ty con có thể là doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần có chi phối của nhà nước, công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên có hơn 50% vốn nhà nước.Sự liên kết kinh tế, tài chính, công nghệ của các nhóm các công ty mẹ con này với nhau tạo thành một tập đoàn kinh tế. 5.3.Ưu điểm của mô hình Mô hình công ty mẹ - công ty con có nhiều ưu điểm cả về cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lí, đặc biệt là đối với những nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn như các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia và đa quốc gia. Theo mô hình này, khi một đơn vị kinh doanh chiến lược của một doanh nghiệp phát triển đến mức yêu cầu phải có sự tự chủ trong hoạt động, thì các doanh nghiệp có xu hướng tách đơn vị kinh doanh chiến lược này thành một thực thể pháp lí độc lập, về mặt pháp lí không chịu trách nhiệm liên quan đến hoạt động của nó. Chính với trách nhiệm hữu hạn này của chủ sở hữu là điều kiện cần để chủ sở hữu có thể xác lập một cơ chế quản lí phân cấp triệt để hơn khi nó còn là một ộ phận trực thuộc của công ty mẹ. Với mối quan hệ theo mô hình công ty mẹ - công ty con, công ty mẹ còn có thể thực hiện được chiến lược chuyển giá, nhất là trong những trường hợp các doanh nghiệp lập cơ sở kinh doanh ở nước ngoài. Với mô hình này các doanh nghiệp có thể thực hiện được sự liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm giảm cạnh tranh, tăng độc quyền của thiểu số cùng phối hợp hay chia sẻ các nguồn lực, tận dụng các thế mạnh của các cổ đông...bằng cách cùng nhau lập các công ty con. Mô hình công ty mẹ - công ty con cho phép các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc bố trí và tái bố trí lại cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau theo chiến lược phát triển của doanh nghiệp bằng việc mua hoặc bán cổ phần của mình trong các công ty con . Công ty mẹ - công ty con cho phép một doanh nghiệp huy động vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách thành lập công ty con mới trong điều kiện vừa có thể kiểm soát doanh nghiệp mới thành lập một cách hữu hiệu thông qua cổ phần khống chế, vừa không bị các nhà đầu tư chi phối đối với doanh nghiệp cũ. Với bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay đang vận hành theo cơ chế thị trường và trong xu thế hội nhập, cạnh tranh diễn ra ngày càng quyết liệt hơn.Do hạn chế về khả năng và nguồn lực, các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế buộc phải hợp tác với nhau trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nghiên cứu phát triển mở rộng về chiều trộng và chiều sâu. Trong đó, một hình thức hợp tác được các đơn vị doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế ưu thích hiện nay là hợp nhất kinh doanh, nó giúp các đơn vị mở rộng được quy mô, giảm đối thủ cạnh tranh, đa dạng hóa nghành nghề, mở rộng thị trường... Sử dụng mô hình công ty mẹ - công ty con là phương thức tốt nhất đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế trong thời kì quá độ đi lên CNXH. Mô hình công ty mẹ công ty con sẽ phát huy được tính tự chủ sáng tạo của từng thành viên từ công ty mẹ đến công ty con, hạn chế được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty trong tập đoàn, do đó tạo nên sức mạnh tập đoàn. Công ty mẹ một mặt tự chủ xây dựng chiến lược phát triển của mình và của taonf bộ hệ thống, lựa chọn các hình thức đầu tư, trực tiếp tác nghiệp kinh doanh, mặt khác đầu tư vốn vào các công ty con và thông qua đó chỉ đạo hoạt động của các công ty con qua HDQT theo định hướng phát triển của công ty mẹ. Các công ty con đều có tư cách pháp nhân, tự chủ hoạt động kinh doanh theo định hướng chiến lược của công ty mẹ, thu hút vốn đầu tư bên ngoài, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh tế của mình. Chính những điều đó làm cho các doanh nghiệp thu lợi nhuận ngày càng nhiều, một tổ chức kinh doanh đạt hiệu qua và tiết kiệm kinh tế cao, một tổ chức phát triển bền vững. VD:- Chỉ sau 1 năm hoạt động, những kết quả bước đầu về sản xuất kinh doanh của các công ty mẹ khá tốt: doanh thu sau khi chuyển đổi tăng cao, bình quân 48%, nộp ngân sách tăng 9%, lợi nhuận tăng 24%;tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn của các công ty mẹ đạt 10,83%; số lao động của các công ty con sau khi sắp xếp, tuyển dụng tăng thêm 11%. Các đơn vị này cũng thừa nhận, việc chuyển sang hoạt động theo công ty mẹ - công ty con đã làm thay đổi bản chất, phương thức tổ chức và phương thức quản lí điều hành từ kiểu hành chính(cấp trên – cấp dưới) sang phương thức đầu tư chi phối về vốn, công nghệ, thương hiệu đối với các công ty con. Tám tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của nhà nước sở hữu gần 400.000 tỷ đồng, chiếm hầu hết vốn nhà nước có tại các doanh nghiệp nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, khoảng 69% tín dụng của ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các đơn vị này là 17%, 28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối năm 2007, tổng số vốn chủ sở hữu của các tập đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26%. Những tổng công ty mới thành lập nhưng đã ổn định được tổ chức và tích cực chuyển đổi đạt kết quả tốt như: TCT Thương mại Sài Gòn, TCT Bến Thành, TCT địa ốc Sài Gòn.... 5.4.Nhược điểm của mô hình: Một số chính sách như chính sách đất đai, chính sách tài chính ... chưa phù hợp. Các tố chức chính trị như tổ chức Đảng, công đoàn ... chưa kịp đổi mới cho phù hợp. Công ty mẹ hầu hết vẫn là công ty 100 % vốn nhà nước, chưa dám cổ phần hóa nên nguồn lực tài chính của công ty mẹ còn yếu nên chưa thực sự làm được vai trò của công ty mẹ Một số công ty mẹ - công ty con vẫn chưa thông thạo cách điều hành theo cơ chế mới, có khi vẫn lặp lại cách chỉ huy hành chính mệnh lệnh Chưa tạo được cơ chế thay đổi đội ngũ cán bộ điều hành, nhất là cán bộ chủ chốt, khi chuyển sang hoạt động yếu kém, sử dụng quá nhiều nguồn lực, được quá nhiều ưu ái, ưu đãi kể cả lúc kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, cạnh tranh không bình đẳng, không làm tròn vai trò nòng cốt của nền kinh tế thậm chí đã trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, lũng đoạn thông qua quan hệ, coi trọng lợi ích nhóm, các tập đoàn kinh tế được xem là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát vào năm 2008. VD: - Tỷ lệ nợ phải trả 8 tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của nhà nước lên đến 1,36 lần, tính đến cuối năm 2007 và nợ của các tập đoàn kinh tế vẫn trong vòng kiểm soát. Tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước rất cao, cá biệt lên đến 42 lần trên vốn của chủ sở hữu. So với mức tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế quốc tế là chỉ 1 đến 3 lần thì tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế Việt Nam nếu được công bố sẽ khiến “thế giới phải giật mình”, có đại biểu quốc hhooij đặt nghi vấn cho rằng nguyên nhân của việc thiếu rõ ràng trong bảo hành tín dụng, độc quyền, khó kiểm soát nợ của doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có gốc gác từ lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm. Ngoài ra, hiện nay đa số các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty ở VN vẫn chưa triển khai thực hiện hoặc áp dụng chưa triệt để việc lập báo cáo tài chính hợp nhất theo đúng chuẩn mực kế toán số 25. 5.5.Khả năng vận dụng mô hình công ty mẹ công ty con trong nền kinh tế Viêt Nam. 5.5.1. Sự cần thiết chuyển các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty con. Do mở cửa hội nhập nên cần phải tổ chức sáp xếp các doanh nghiệp nhỏ, manh mún thành những doanh nghiệp lớn để đủ khả năng đối tác cũng như cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Do nền kinh tế hội nhập sẽ phải chấp nhận cạnh tranh, cạnh tranh tất yếu dẫn đến tích tụ và tập trung vốn vì vậy tất yếu sẽ hình thành doanh nghiệp lớn, tức các tập đoàn kinh tế. Song khác với các tập đoàn kinh tế thế giới, hầu hết đều đi từ các công ty nhỏ, hoạt động rất hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở thành tập đoàn khổng lồ, các tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các tổng công ty có quy mô chưa lớn, yếu kém trong quản lí, quen dựa vào bao cấp đã vừa độc lại thích có thêm quyền, phần lớn vị trí chủ chốt được bổ nhiệm vì lí do chính trị chứ không dựa trên năng lực quản trị kinh doanh nên sự tác hại của các tập đoàn kinh tế khi làm ăn thiếu hiệu quả có thể gây tác hại lớn cho nền kinh tế, cẩn thận trong việc thành lập. * Để chuyển từ mô hình hiện tại sang mô hình mới cần giải quyết một số vấn đề như: Nhà nước cần có những bước đánh giá, phân tích một cách khoa học chuỗi giá trị của nhóm để xác định những công ty nòng cốt, nắm giữ khâu then chốt trong chuỗi giá trị tổng công ty để chuyển đơn vị thành viên này trở thành công ty mẹ, nắm giữ vốn cổ phần trong các công ty con. Công ty mẹ có thể là công ty sản xuất, thương mại – dịch vụ, nghiên cứu và phát triển hoặc là các công ty tài chính – ngân hàng. Việc chọn công ty mẹ này đồng nghĩa với việc giải thể bộ máy quản lí hành chính của các công ty hiện nay. Tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên theo luật doanh nghiệp. Thực hiện bước này đồng nghĩa với việc xóa bỏ cơ chế chủ quan đối vơí các doanh nghiệp thành viên (các công ty con); công ty mẹ chỉ còn là sở hữu phần vốn cổ phần tại các công ty con, thay vì là chủ của toàn bộ sản nghiệp. Xác lập một cơ chế quản lí mới , chỉ giao trách nhiệm quản lí và sử dụng vốn nhà nước ở các công ty mẹ cho HDQT hoặc chủ tịch công ty nếu DN không có HDQT,và dưới hình thức hợp đồng quản lí. Điều này có nghĩa là sẽ không còn những quy định về quản lí mang tính pháp quy cho riêng đối với việc quản lí doanh nghiệp nhà nước như hiện nay, mà nó được xác lập theo hợp đồng quản lí – quan hệ dân sự, lao động. Cho quyền HDQT, chủ tịch công ty được chủ động quyết định việc thuê giám đốc nếu xét cân thiết, và theo cơ chế thị trường lao động. Phải tăng cường công tác tuyên truyền về mô hình công ty mẹ - công ty con và sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tổng công ty nhà nước sang mô hình công mẹ - công ty con cho các các cấp, các nghành và nhất là cho cán bộ, công nhân các doanh nghiệp nhà nước-nơi sẽ chuyển đổi. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lí cho việc hình thành và phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con từ công ty nhà nước(các vấn đề như: những nội dung chỉ đạo chuyển đổi mô hình, quy chế tài chính cho các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi, các chính sách khác...). Gắn việc chuyển đổi mô hình với việc thay đổi tổ chức, nhân sự để tạo nên xung lực mới cho doanh nghiệp( thí dụ cho phép hội đồng quản trị thuê giám đốc điều hành giỏi, đại hội cổ đông sẽ đề nghị phía chủ sở hữu nhà nước đề cử những cán bộ quản lí mới cho đại hội lưa chọn...) Nghiên cứu xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng khác trong doanh nghiệp theo mô hình công ty mẹ - công ty con cho phù hợp với cơ chế mới. 5.5.2. Bước đầu của quá trình áp dụng CTM-CTC ở VN: Định chế công ty tư nhân của ta mới tồn tại 20 năm. Thoạt đầu , các công ty do các chủ gia đình nắm giữ trong bối cảnh cầu cao hơn cung của nền kinh tế. Các ông chủ mở công ty theo kiểu cần đến đâu mở đến đó. Cũng có thể khi công ty ăn nên làm ra thì cũng chỉ mở những ngành nghề khác nhau trong nội bộ với cơ chế hạch toán báo sổ. Chẳng cần mẹ con. Các công ty phát triển theo hai cách này đều gặp hai trở ngại chung và lớn là quản trị và nhan sự. DNNN đã tồn tại trên 50 năm. Vốn của chúng do một ông chủ duy nhất nắm. Nhà nước nắm vốn thì mở công ty tùy ý. Khác vối tư nhân, DNNN phải đối phó với vấn đề hiệu quả kinh doanh. Để giải quyết với quyền lực của mình đã thiết lập các tổng công ty 90 và 91. Bất kể đến lai lịch hình thành của minh và của thế giới ra sao,nhà nước nói là “ xây dựng các tập đoàn” để có “quả đấm mạnh”. Vì các căn bệnh bẩm sinh của nó là quản trị và nhân sự không hề được chữa nên các tổng công ty không thành công về mặt kinh doanh. Để vượt qua thất bại đó và trước áp lực hội nhập, Nhà nước bèn chuyển các công ty thành accs công ty mẹ con. Trước biến chuyển của DNNN, các công ty tư nhân cũng làm theo. Công ty nào có mặt nhiều địa phương thì sắp xếp lại thành mẹ với con ,ai có nhiều ngành trong nội bộ sẽ tách ra thành con với mẹ. Ở đây có sự chuyển vốn để có thể đang kí. Trong quá trình chuyển đổi ấy, ta thấy các công ty tư nhân thực hiện chuyển đối mô hình là để giải quyết vấn đề quản trị, thông qua đó giải quyết vấn đề nhân sự; còn ở DNNN là để nhà nước rút bớt vốn về và tăng hiệu quả kinh doanh. Như vậy, công ty mẹ con của VN không xuất phát trên một nền tảng kinh tế giống như ở các nước khác. Cho đến nay, chính phủ đã cho thí điểm thực hiện mô hình công ty mẹ - công ty con ở 52 DNNN, trong đó có 31 công ty xuất phát từ tổng công ty nhà nước,16 công ty nhà nước độc lập và các DNNN khác. Theo như sơ kết của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp thì việc thực hiện thí điểm đã có một số kết quả bước đầu , thể hiện ở: Đã xây dựng được cơ sở pháp lí cho mô hình công ty mẹ - công ty con: xây dựng nội dung cơ bản của công ty mẹ - công ty con và đã đưa nội dung đó vào luật DNNN 2003;ban hành nghị định 153/2004/ND-CP hướng dẫn chuyển đổi tổng công ty nhà nước và các loại DNNN khác sang mô hình công ty mẹ - công ty con, làm rõ tính pháp lí, chức năng, trách nhiệm, quyền hạn và mô hình của các tổ hợp công ty mẹ - công ty con;ban hành quy định quản lí tài chính trong loại hình tổ hợp này... Tạo ta được mô hình tổ chức quản lí doanh nghiệp mới phù hợp với cơ chế thị trường và xu hướng phát triển của DNVN. Đó là công ty mẹ DNNN, còn công ty con thì rất đa dạng. Cũng là mô hình công ty mẹ - công ty con nhưng đa dạng trong loại hình tổ chức.Nhờ vậy, chúng ta đã tạo ra được mô hình tổ chức quản lí doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với cơ chế thị trường. Các công ty mẹ - công ty con tuy mới ra đời trong giai đoạn thí điểm nhưng đã hoạt động tốt. Các chỉ tiêu kinh tế đều tăng như: công ty xây lắp điện 3, năm 2004 so với năm 2003 vốn điều lệ tăng 125%, doanh thu tăng 120%, lợi nhuận tăng 83%, nộp ngân sách tăng 112%, thu nhập của người lao động tăng 108%; Công ty constrexin, năm 2004 so với năm 2003 doanh thu tăng 113%,lợi nhuận tăng 143%, nộp ngân sách tăng 135%; tổng công ty Đường sông miền nam mới sau một năm chuyển doanh thu đã tăng 65,5%, lợi nhuận tăng 65%, thu nhập bình quân đầu người lao động tăng 53%... II. Thực trạng và xu hướng phát triển của tập đoàn kinh tế. 1. Thực trạng của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam. Việc xây dựng tập đoàn kinh tế là chủ trương của Đảng và nhà nước nhằm đua nền kinh tế phát triển cùng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà Nước cũng đã xác định rõ một số lĩnh vực trọng điểm cần phải hình thành tập đoàn kinh tế. Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của mình, Nhà Nước đều thể hiện quan điểm hình thành các tập đoàn kinh tế mũi nhọn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo đó một số tổng công ty nhà nước trong một số lĩnh vực mũi nhọn sẽ được chuyển đổi thành các tập đoàn kinh tế. Trên thực tế trong năm 2006 đến đầu năm 2007 tám tập đoàn kinh tế quốc gia trong các lĩnh vực mũi nhọn như bưu chính viễn thông , than khoáng sản, dầu khí , điện lực ,công trình tàu thủy, dệt may , cao su ,tài chính bảo hiểm đã được thành lập. Đây là những tổng công ty có quy mô lớn mạng lưới thành viên có quan hệ mật thiết liên doanh hợp tác với nhiều đối tác. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đã xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án. Các vấn đề nảy sinh đó là mối quan hệ liên kết giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết , cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý (thành phần , quyền , trách nhiệm mối quan hệ giữa các bộ phận quản lý trong bộ máy tập đoàn), thương hiệu của tập đoàn , quy mô vốn điều lệ các vấn đề khác để xác lập tập đoàn. Ngay như đơn vị pháp lý của tập đoàn vẫn còn những ý kiến khác nhau như tập đoàn có hay không có tư cách pháp nhân, đăng ký hay không đăng ký, có hay không có bộ máy quản lý riêng. Như vậy, trong những năm qua vẫn còn rất nhiều những quan điểm khác nhau về nguyên tắc hình thành tập đoàn kinh tế trên cơ sở tổng công ty nhà nước. Việc hình thành các tập đoàn chỉ mang tính thuần túy thị trường hay chỉ quyết định hành chính hay kết hợp cả hai nguyên tắc trên. Bên cạnh việc thí điểm hình thành các tập đoàn mũi nhọn theo định hướng của nhà nước dưới hình thức chuyển đổi các tổng công ty nhà nước thành tập đoàn kinh tế, Nhà Nước cũng khuyến khích sự hình thành phát triển của khu vực tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua cũng có những bước phát triển rất đáng chú ý. Nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân đã được hình thành phát triển trở thành đầu tàu kinh tế trong một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế . Khu vực kinh tế tư nhân đã có những bướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu về các tập đoàn kinh tế Việt Nam Mô hình công ty mẹ công ty con đã được áp dụng tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan