Sau một thời gian dài áp dụng Pháp lệnh Thừa kế nói riêng và các văn bản pháp luật dân sự nói chung vào thực tiễn cuộc sống ,trước sự phát triển không ngừng và sự phong phú, đa dạng của các quan hệ dân sự cho thấy việc quy định để điều chỉnh các quan hệ dân sự bằng các văn bản dưới luật đã không còn phù hợp và không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế cuộc sống.Trước tình hình đó,Bộ Luật Dân sự 1995 được ban hành và trở thành một công cụ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,tổ chức , lợi ích của nhà nước , lợi ích của cộng đồng , góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội .Với tinh thần ấy , Bộ luật Dân sự 1995 là một văn bản pháp luật đã hệ thống hoá, pháp điển hoá toàn bộ pháp luật dân sự của nước ta từ trước đến nay.Tuy nhiên,về hàng thừa kế theo pháp luật ,Bộ luật Dân sự vẫn giữ nguyên quy định của Pháp lệnh về Thừa kế.Tại điều 679,BLDS 1995 quy định về hàng thừa kế như sau:
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về diện và hàng thừa kế trong quá trình phát triển của dân luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
81 không phải là những người mà giữa họ có quan hệ nuôi dưỡng hay họ nhận kết nghĩa anh -em ,chị-em với nhau mà họ là những người được coi là những thành viên trong một gia đình nhưng không cùng cha mẹ đẻ vì một người là con ruột , một người là con nuôi của cha mẹ trong gia đình đó. Chẳng hạn, vợ chồng ông A và bà B có con đẻ là anh C,sau đó nhận anh D làm con nuôi , thì C và D được gọi là anh –em nuôi .Vì vậy, khi ông A , bà B chết thì cả C và D đều là con nên đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của ông A, bà B .Khi C, chết , D thuộc diện thừa kế theo luật của C và ngược lại.
Trong những năm khởi đầu thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế ,nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để thừa nhận và bảo đảm cho nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển theo định hướng XHCN .Bên cạnh các hình thức sở hữu cơ bản ,chủ đạo như sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể thì các hình thức sở hữu khác như : sở hữu cá thể ,sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân cũng được nhà nước công nhận và đảm bảo để tồn tại và phát triển. Theo đó, các văn bản pháp luật về thừa kế cũng được củng cố nhằm đảm bảo cho sự ổn định và bền vững mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đảm bảo quyền tư hữu cá nhân đối với tài sản của họ . Đặc biệt, nhằm đảm bảo quyền để lại thừa kế cũng như quyền hưởng di sản của người chết để lại giữa những người là thành viên trong một gia đình , Hội đồng nhà nước( nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã ban hành kịp thời Pháp lệnh về thừa kế vào 30 tháng 8 năm 1990. Diện thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh Thừa kế xác định được mở rộng hơn so với Thông tư 81 . Đó là đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo trực hệ đã được xác định ở phạm vi bốn đời ( tôn thuộc ở bậc cụ, ty thuộc ở hàng chắt). Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột,bác ruột,cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và cháu của người chết là chú ,bác ruột cô,cậu ruột,dì ruột ) .Tuy nhiên , Pháp lệnh Thừa kế không thừa nhận anh ,chị ,em nuôi có quan hệ thừa kế với nhau. Khi bộ luật Dân sự 1995 của nhà nước ta được ban hành thì các vấn đề về thừa kế nói chung về cơ bản được kế thừa từ quy định của Pháp lệnh về Thừa kế. Vì vậy ,diện những người được hưởng di sản của người chết theo pháp luật được xác định trong bộ luật này không có gì thay đổi so với Pháp lệnh Thừa kế.Các văn bản pháp luật về thừa kế trước đây ( chẳng hạn như Thông tư 594,thông tư 81) đã trực tiếp sử dụng thuật ngữ “ diện thừa kế” để xác định phạm vi những người được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết để lại.Khác với các thông tư đó, Bộ luật dân sự 1995 không quy định trực tiếp về diện thừa kế. Tuy vậy,dựa vào những người thuộc các hàng thừa kế theo pháp luật và những người được hưởng thừa kế thế vị mà Bộ luật Dân sự 1995 đã xác định thì những người nằm trong diện có thể hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm những người sau đây: vợ,chồng,cha mẹ đẻ , cha mẹ nuôi, con đẻ,con nuôi của người chết( hàng thừa kế thứ nhất) ; ông nội ,bà nội , ông bà ngoại ; anh chị ruột ,em ruột của người chết ( hàng thừa kế thứ hai) ; cụ nội ngoại, của người chết ; bác ruột, chú ruột , cô , cậu ruột ,dì ruột của người chết ; cháu ruột của người chết mà người chết là chú ruột, bác ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột ( hàng thừa kế thứ ba); cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,bà nội ông bà nội ngoại ;chắt của người chết mà người chết là cụ nội ,cụ ngoại( thuộc người thừa kế thế vị). Khi bộ luật Dân sự 1995 được sửa đổi thành bộ luật dân sự 2005 thì phạm vi những người có thể được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản thừa kế của người chết để lại về cơ bản là không đổi ( điều 676 bộ luật dân sự 2005). Tuy nhiên,bộ luật Dân sự 2005 đã xác định thêm: cháu vừa là người thừa kế theo pháp luật của ông bà ở hàng thừa kế thứ hai vừa là người thừa kế thế vị của ông bà ,cha,mẹ khi cha,mẹ chết trước hoặc cùng thời điểm với ông,bà. Chắt vừa là người thừa kế theo pháp luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba vừa là người thừa kế thế vị khi ông bà, cha,mẹ chết trước cụ.
II. Hàng thừa kế theo pháp luật
Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích của người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân thích đó thì mức độ gần gũi, thân thích đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có cùng mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng di sản của người đó.Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại. Như vậy, không phải tất cả những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế cùng một lúc.Để những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được thừa kế theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết , pháp luật về thừa kế đã sắp xếp những người đó theo từng nhóm khác nhau.Mổi một nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật. Vậy, hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế người chết để lại. Đa phần, pháp luật của các nước khi phân chia thành các hàng thừa kế để xác định trình tự dịch chuyển di sản từ người chết sang những người thừa kế theo pháp luật của người đó theo truyền thống: “ dòng chảy xuôi” nên pháp luật của các nước thường xếp con của người chết ở hàng thừa kế thứ nhất nhưng cha mẹ của người chết không được xếp ở hàng thừa kế thứ nhất. Mặt khác,mỗi một quốc gia và thậm chí trong cùng một quốc gia ở mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm khác nhau về gia đình , về bổn phận của các thành viên trong gia đình với nhau. Hơn nữa,pháp luật về thừa kế ngoài việc phụ thuộc vào pháp luật về sở hữu còn phụ thuộc rất nhiều về truyền thống văn hoá ,hoàn cảnh xã hội, tập tục, đạo đức ,tôn giáo của mỗi quốc gia . Vì vậy,hàng thừa kế theo pháp luật được quy định trong pháp luật của các nước có nhiều điểm khác nhau.
1. Hàng thừa kế theo bộ luật Dân sự Nhật Bản
Bộ Luật Dân sự Nhật Bản dựa trên quan hệ huyết thống và hôn nhân giữa những người thừa kế với người để lại di sản để xác định ba hàng thừa kế.
Hàng thứ nhất bao gồm con của người chết ,cháu của người chết sẽ thừa kế di sản của người đó ở hàng thứ nhất nếu con của người đó chết trước hoặc mất quyền hưởng di sản trước thời điểm mở thừa kế ( điều 887 bộ luật dân sự Nhật Bản).
Hàng thừa kế thứ hai bao gồm những người có quan hệ huyết thống với người chết trực thuộc hệ tôn tộc ( những người huyêt thống bề trên)
Hàng thứ ba gồm anh ,chị,em ruột của người để lại di sản .
2. Hàng thừ kế theo Bộ Luật Dân sự Pháp
Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp khi quy định về hàng thừa kế chủ yếu dựa vào quan hệ huyết thống giữa người thừa kế với người để lại di sản ,theo đó trước hết di sản được truyền cho những người có quan hệ huyết thống ty thuộc giới tính và không phụ thuộc vào hính thức hôn nhân của cha mẹ ( điều 754 bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp). Theo bộ luật này thì vợ chồng người chết không nằm trong bất kỳ một hàng thừa kế nào.Vợ chồng chỉ được hưởng di sản của nhau khi một bên chết trước trong trường hợp không có thân thuộc của người chết trước ( điều 765 bộ luật Dân sự Công hoà Pháp).
3. Hàng thừa kế theo bộ Luật Thái Lan
Pháp luật thừa kế của Thái Lan cũng không quy định vợ ,chồng của người để lại di sản trong bất kỳ một hàng thừa kế nào . Điều 1635 Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan đã quy định rằng phần di sản mà vợ ,chồng của người để lại di sản được hưởng phụ thuộc vào các hàng thừa kế và các bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc của người để lại di sản .
4. Hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam từ thời phong kiến đến bộ luật Dân sự 1995
Pháp luật thừa kế ở Việt Nam thời kỳ phong kiến quy định về hàng thừa kế theo trật tự ưu tiên những người có quan hệ huyết thống ty thuộc nội tộc với người để lại di sản . Bộ luật dân sự Bắc Kỳ 1931 và bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 quy định về các hàng thừa kế như sau:
Hàng thứ nhất gồm: các con ( con đẻ,con nuôi, con vợ cả ,con vợ lẽ ) của người để lại di sản . Trong trường hợp người để lại dí sản không có con thì cháu hưởng di sản ( điều 18 dân luật Bắc Kỳ và điều 182 dân luật Trung Kỳ).
Hàng thứ hai gồm: Cha mẹ đẻ ,cha mẹ nuôi của người để lại di sản
Hàng thứ ba gồm: Ông bà nội ngoại ,cụ nội của người để lại di sản
Hàng thứ tư gồm: Anh chị em ruột của người để lại di sản. Con của anh chị em ruột người để lại dí sản cũng thuộc hàng này trong trường hợp anh ,chị,em ruột của người để lại di sản đã chết trước người để lại di sản. Cháu gọi anh chị em ruột của người để lại di sản bằng ông,bà cũng thuộc hàng thừa kế này trong trường hợp anh chị em ruột của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản.
Hàng thứ năm bao gồm: Những người bên họ ngoại của người để lại di sản . Những người này chỉ được hưởng di sản sau khi đã xác định bên họ nội của người để lại di sản thừa kế không còn ai hoặc còn nhưng đều bị coi là không xứng đáng được hưởng di sản. Từ việc điểm qua quy định về hàng thừa kế trong pháp luật của một số nước và pháp luật Việt Nam thời phong kiến ,chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng việc dịch chuyển di sản đều thực hiện theo “ dòng chảy xuôi” nên bố mẹ không bao giờ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con khi con chết ,cũng như vợ ,chồng không thộc hàng thừa kế thứ nhất khi một bên chết . Tất cả di sản của người chết được dồn hết cho con của họ được hưởng thừa kế thì di sản mới được chuyển dịch cho bố, mẹ theo: “ dòng chảy ngược”. Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay, chú trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con , giữa vợ và chồng...... đồng thời chú trọng đến mức độ gần gũi giữa người thừa kế với người để lại di sản ,pháp luật về thừa kế ở nước ta đã xác định hàng thừa kế hoàn toàn khác. Nhìn chung , trừ thông Tư 1742 còn tất cả các văn bản pháp luật về thừa kế đã từng được ban hành ở mước ta sau ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay đều xác định những người có cùng mức độ gần gũi với người để lại di sản sẽ đứng vào cùng một hàng thừa kế mà không phân biệt quan hệ giữa họ với người để lại di sản là hôn nhân , huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng .Theo đó, hàng thừa kế thứ nhất bao giờ cũng được xác định gồm cha, mẹ, vợ, chồng,con của người chết. Tuy nhiên,tổng số hàng thừa kế trong các văn bản pháp luật là khác nhau tuỳ thuộc vào phạm vi rộng hay hẹp của diện thừa kế theo pháp luật . Thông tư 1742 đã xác định thứ tự thừa kế theo pháp luật như sau: thứ tự thứ nhất gồm : Vợ hoặc chồng và các con của người chết. Thứ tự thứ hai gồm: Cha,mẹ của người chết ,sau cha ,mẹ đến các hàng thừa kế khác. Như vậy thông tư này đã có sự sắp xếp những người thừa kế theo từng hàng nhưng còn thiếu tính cụ thể vì theo thứ tự trên sẽ được hiểu là có ba hàng thừa kế nhưng hàng thừa kế khác bao gồm những ai thì chưa được xác định . Việc quy định không rõ ràng của Thông tư 1742 dẫn đến việc Toà án khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế gặp nhiều lúng túng. Nhằm khắc phục thiếu sót trên của Thông tư 1742, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư 594 hướng dẫn đường lối xét xử các tranh chấp về thừa kế .Trong đó đã quy định : hàng thừa kế thứ nhất gồm có: Vợ goá,( vợ cả,vợ lẽ) hoặc chồng goá ;các con đẻ ,các con nuôi;bố mẹ đẻ,bố mẹ nuôi. Hàng thừa kế thứ hai gồm: anh chị em ruột và anh ,chị em nuôi; ông bà nội ngoại. Như vậy,khác với Thông tư 1742 ,Thông tư 594 đã xếp bố ,mẹ lên hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản do con để lại ,đồng thời đã loại bỏ cụm từ : “ hàng thừa kế khác” để xác định chính thức chỉ có hai hàng thừa kế.
Tiếp đến, Thông tư 81 được ban hành ,trong đó cũng xác định hai hàng thừa kế theo pháp luật và cơ bản giống quy định của Thông tư 594; những người ở hàng thừa kế thứ nhất được quy định trong Thông tư 594 được giữ nguyên.Tuy nhiên ở hàng thừa kế thứ hai,Thông tư này đã bổ sung thêm” anh , chị em cùng cha khác mẹ và cùng mẹ khác cha”. Văn bản pháp luật quy định về thừa kế tiếp theo Thông tư 81 là Pháp lệnh về Thừa kế. Đây là một văn bản do Hội đồng nhà nước ban hành trong những năm đầu thực hiện đường lồi của Đảng. Để đảm bảo hơn nữa về quyền thừa kế của mọi chủ thể nói chung và của cá nhân nói riêng, Pháp lệnh về Thừa kế đã xác định diện những người thừa kế theo pháp luật với phạm vi rộng hơn Thông tư 81. Vì vậy ,số lượng hàng Thừa kế theo pháp luật cũng nhiều hơn so với các văn bản pháp luật khác về thừa kế trước đó. Điều 25 của Pháp lệnh Thừa kế quy định ba hàng thừa kế như sau:
-Hàng thứ nhất : Vợ , chồng ; cha mẹ đẻ ,c ha mẹ nuôi của người chết
-Hàng thứ hai gồm: Ông bà nội ngoại ; anh chị em ruột của người chết
-Hàng thứ ba gồm: Cụ nội ngoại của người chết ; bác ruột ,chú ruột,cô ,dì ruột,cậu ruột. Như vậy, so với Thông tư 81, Pháp lệnh về thừa kế có nhiều điểm mới sau:
Thứ nhất: Trong mối quan hệ thừa kế di sản của nhau giữa cha,mẹ và con , Pháp lệnh Thừa kế không phân biệt người con đó có đang làm con nuôi của người khác hay không .Vì vậy, khi cha mẹ chết thì con nuôi cũng như con đẻ đều đứng ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của bố,mẹ để lại và ngược lại ,khi con chết thì cha mẹ đẻ cũng như cha mẹ nuôi đều đứng ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con chết để lại.
Thứ hai , Trong hàng thừa kế thứ hai, Pháp lệnh thừa kế đã loại đi anh ,chị ,em nuôi của người chết. Đây là điểm tiến bộ của Thông tư 81 vì thuật ngữ:”anh, chị , em nuôi” chỉ là những người có cùng cha mẹ ,trong đó có người là con nuôi,có người là con đẻ mà không được hiểu là giữa họ có quan hệ nuôi dưỡng.Vì thế, anh chị em nuôi là thành viên trong một gia đình sẽ cùng được hưởng di sản mà bố ( mẹ) để lại ,còn khi một trong những người đó chết mà họ không cùng bố mẹ đẻ ra thì họ không được hưởng di sản của nhau.
Thứ ba, Pháp lệnh Thừa kế đã sắp xếp thêm những người thuộc huyết thống trực hệ tôn thuộc của người chết ở đời thứ tư cũng như đã xếp thêm những người thuộc huyết thống bàng hệ của người chết ở đời thứ hai ( cô,dì chú ,bác ,cậu của người chết và cháu gọi người chết là cô dì,chú bác) vào trong hàng thừa kế thứ ba .
Sau một thời gian dài áp dụng Pháp lệnh Thừa kế nói riêng và các văn bản pháp luật dân sự nói chung vào thực tiễn cuộc sống ,trước sự phát triển không ngừng và sự phong phú, đa dạng của các quan hệ dân sự cho thấy việc quy định để điều chỉnh các quan hệ dân sự bằng các văn bản dưới luật đã không còn phù hợp và không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế cuộc sống.Trước tình hình đó,Bộ Luật Dân sự 1995 được ban hành và trở thành một công cụ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,tổ chức , lợi ích của nhà nước , lợi ích của cộng đồng , góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội .Với tinh thần ấy , Bộ luật Dân sự 1995 là một văn bản pháp luật đã hệ thống hoá, pháp điển hoá toàn bộ pháp luật dân sự của nước ta từ trước đến nay.Tuy nhiên,về hàng thừa kế theo pháp luật ,Bộ luật Dân sự vẫn giữ nguyên quy định của Pháp lệnh về Thừa kế.Tại điều 679,BLDS 1995 quy định về hàng thừa kế như sau:
a, Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,chồng,cha mẹ đẻ,cha mẹ nuôi; con đẻ, con nuôi của người chết.
b, Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông bà nội,ông bà ngoại; anh chị em ruột của người chết
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội,cụ ngoại của người chết ; bác ruột,cô ruột,cậu ruột, dì ruột, chú ruột của người đã chết; cháu ruọt của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột”
Theo quy định trên thì ông nội ,bà nội,ông ngoại, bà ngoại là người thừa kế của cháu ở hàng thừa kế thứ hai nhưng cháu không thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông, bà. Tương tự như vậy,cụ nội,cụ ngoại là người thừa kế của chắt ở hàng thừa kế thứ ba nhưng chắt không thuộc hàng thừa kế thứ ba của các cụ . Sở dĩ các nhà làm luật không đưa cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà và chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ vì muốn cháu hưởng thừa kế thế vị của ông bà, chắt hưởng di sản của các cụ theo chế độ thừa kế thế vị trong trường hợp cha, mẹ của cháu và cha,me của chắt chết trước ông bà,các cụ. Khi ban hành bộ luật dân sự 1995, các nhà làm luật cho rằng dù có xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của ông,bà thì theo trình tự cháu vẫn không được hưởng di sản của ông ,bà nếu cha,mẹ cháu vẫn còn sống vào thời điểm ông,bà chết.Nếu cha mẹ cháu chết trước ông bà thì cháu đã được hưởng di sản của ông bà theo chế độ thừa kế thế vị .Vì thế sẽ là thừa nếu xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà ,chắt vào hàng thứ ba của các cụ.Tuy nhiên,cách hiểu này và quy định trên đã bộc lộ rõ sự thiếu xót và đã được bổ sung trong Bộ Luật Dân sự 2005. Do sự phát triển và thay đổi của cuộc sống, các quy định trong bộ luật Dân sự 1995 được sửa đổi,bổ sung bằng bộ luật Dân sự 2005 .Về hàng thừa kế theo pháp luật, Điều 676 bộ luật Dân sự 2005 quy định:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ , chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,cha nuôi, mẹ nuôi,con đẻ , con nuôi của người đã chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội,bà nội, ông ngoại ,bà ngoại, anh ruột,chị ruột ,em ruột của người chết ,cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,bà nội,ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội,cụ ngoại của người chết; bác ruột ,chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết ; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, câụ ruột, dì ruột;chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
5. Hàng thừa kế theo bộ luật Dân sự 2005
Về cơ bản thì bộ luật dân sự 2005 giữ lại quy định của bộ luật Dân sự 1995 về hàng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên,có bổ sung thêm cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà ,chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Theo quy định của điều 676 bộ luật Dân sự 2005 thì quan hệ thừa kế giữa những người trong cùng một hàng thừa kế được xác định như sau:
a. Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau:
+ Quan hệ thừa kế giữa vợ với chồng : Vợ chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận.Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ mang tính hai chiều , nghĩa là : khi bên này chết, bên kia là người thừa kế ở hàng thứ nhất và ngược lại. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân . Theo quy định tại điều 8 , luật hôn nhân gia đình năm 2000: thì hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn. Mặt khác,cũng tại điều 8 của luật trên còn quy định “ Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.Vì thế,vợ-chồng được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời diểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, việc thừa nhận nam và nữ có quan hệ hôn nhân để theo đó xác định họ là vợ chồng,được thừa kế di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ nhất rất khác nhau trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, kể từ khi luật Hôn Nhân và gia đình 1959 của nước ta có hiệu lực thì chế độ hôn nhân một vợ một chồng được xác lập. Trong giai đoạn này vẫn phải chấp nhận chế độ đa thê do các quy định trước ngày có hiệu lực của luật hôn nhân gia đình 1959.Chính vì thế, khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất,vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn ,sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại.Do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ hai,vợ chồng đã sống ly thân về mặt tình cảm hầu như tình yêu giữ họ không còn, hôn nhân của họ đã chết về mặt tình cảm, nhưng về mặt pháp lý,người còn sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ ba, khi một bên chết, dù người còn sống đang sống chung với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ tư, vợ,chồng đang xin ly hôn mà chưa được Toà án cho ly hôn hoặc đã được Toà án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn vẫn chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người còn sống vẫn được hưởng thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ năm. Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó đều được tiến hành trước ngày 13-1-1960 ở miền Bắc( luật hôn nhân gia đình 1959 có hiệu lực) thì khi người chồng chết trước,tất cả các người vợ(nếu còn sống vào thời điểm người chồng chết) đều là người ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng.Ngược lai,chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các vợ đã chết trước người chồng đó.
Trường hợp thứ sáu: Nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam,sau khi tập kết ra Bắc , lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người đó đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng sau khi người chồng chết và ngược lại.
Trường hợp thứ bảy, đối với các trường hợp hôn nhân không đăng ký kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế thì quan hệ vợ chồng vẫn được thừa nhận và họ ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi một trong hai người qua đời trước.
Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày Luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật mà cuộc sống chung không bị huỷ bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo hôn nhân nên vẫn là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
+.Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con : Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha,mẹ một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính hai chiều; Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ.Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng một dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau.Trong đó,cha mẹ đẻ của một trong hai người đã sinh ra người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy,cha mẹ của người do mình sinh ra dù trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản do cha, mẹ mình để lại .Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha-con ,mẹ-con hoặc theo cha,mẹ-con.Cha nuôi, mẹ nuôi của nột người là người đã nhận người đó làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật .Cha nuôi,mẹ nuôi là những người ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người con nuôi đó chết và ngược lại .Trong trường hợp vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi khi người con nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con đẻ khi con đẻ chết. Ngược lại, một người đang là con nuôi của người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha,mẹ nuôi khi cha,mẹ nuôi chết, vừa là người thừa kế ở hàng thứ nhất khi cha, mẹ đẻ chết.Đối với trường hợp người nhận con nuôi không đăng ký việc nhận nuôi con nuôi theo đúng quy định của pháp luật thì cha mẹ nuôi với con nuôi chỉ ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là con nuôi thực tế. Cần lưu ý rẳng cụm từ : “cha,mẹ và con’còn được dùng để chỉ các quan hệ khác như qua hệ giữa cha ,mẹ của một người với vợ của người đó( con dâu với cha mẹ chồng) ,hoặc giữa cha mẹ của một người với chồng của người đó( con rể với cha mẹ vợ). Trong các trường hợp trên, không có căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa họ . Vì thế,con dâu và con rể không thể là người thừa kế theo pháp luật của cha mẹ chồng và cha mẹ vợ. Tuy nhiên,nếu người con dâu tham gia lao động chung trong gia đình cha,mẹ chồng ,góp công trong việc xây dựng khối tài sản chung của gia đình cha,mẹ chồng thì người con dâu đó có quyền hưởng phần tài sản tương ứng với công sức đóng góp của mình trong khối tài sản chùng hiện có với tư cách là đồng chủ sở hữu. Vì vậy,trước khi chia di sản của cha,mẹ chồng cho những người thừa kế cần phải tách từ khối tài sản đó phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người con dâu.Người con rể cũng được đảm bảo quyền lợi như trên. Ngoài ra, cụm từ trên còn được dùng chỉ mối quan hệ giữa con của một người với chồng kế của người đó. Các quan hệ này được bộ luật Dân sự 1995 và 2005 gọi là quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế. Khi xác định về quan hệ thừa kế giữa những người này điều 679, bộ luật Dân sự 2005 quy định : “ Con riêng và bố dượng ,mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc , nuôi dưỡng nhau như cha con ,mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và 677 của Bộ Luật này”. Điều luật trên quy định về hai mối quan hệ : Quan hệ giữa con riêng với bố dượng. Quan hệ giữa con riêng với mẹ kế.Các bên trong hai mối quan hệ nói trên không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau . Tuy nhiên, nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc,nuôi dưỡng lẫn nhau thì họ được xác định tương tự như cha mẹ nuôi với c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thừa kế theo pháp luật.doc