1.Độc quyền: 1
2.Nội hàm khái niệm “độc quyền”: 1
3.Ngoại diên của khái niệm “độc quyền”: 1
4/Lịch sử khái niệm: 4
5/Nghi vấn và bổ sung của người biên soạn: 4
6/Nguồn tài liệu tham khảo: 4
1/Tư bản (vốn): 5
2/Nội hàm khái niệm “Tư bản”hoặc “vốn”: 5
3/Ngoại diên của khái niệm “tư bản “ hoặc “vốn”: 5
4/Lịch sử khái niệm: 7
5/Nghi vấn và bổ sung của người biên soạn: 8
6/Nguồn tài liệu tham khảo: 8
1/Tài sản: 9
2/Nội hàm của khái niệm “Tài sản”: 9
3/Ngoại diên của khái niệm “tài sản”: 9
4/Những nghi vấn và bổ sung của người biên soạn: 11
5/Nguồn tài liệu tham khảo: 12
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2175 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về độc quyền, tư bản và tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Độc quyền
1.Độc quyền:
+Tiếng Việt: Độc quyền.
+Tiếng Anh:Monopoly.
+Tiếng Pháp:Monopole.
+Tiếng Ý:Monopolio.
2.Nội hàm khái niệm “độc quyền”:
Là tình trạng chỉ có một ít người hay tổ chức độc chiếm thị trường. ĐQ có thể là do pháp luật nhà nước đặt ra, dành cho một ngành, một xí nghiệp quốc doanh hay một tổ chức, một công ti tư nhân (vd. ĐQ về vũ khí, thuốc nổ, rượu, thuốc lá...). ĐQ cũng có thể là giai đoạn cao của quá trình tích tụ và tập trung tư bản và sản xuất, một công ti, một tập đoàn lớn mạnh độc chiếm thị trường. Tuy nhiên, ĐQ không loại trừ cạnh tranh, trái lại cạnh tranh càng gay gắt giữa những tổ chức kinh tế lớn để giành giật thị trường của nhau. ĐQ được hình thành trên cơ sở tập trung lực lượng kinh tế vào tay một hay một số ít người, làm cho những người và tổ chức này có quyền lực kinh tế lớn đối với quá trình tái sản xuất. Các doanh nghiệp ĐQ có sức mạnh tài chính rất lớn, chiếm đại bộ phận nguồn nguyên liệu, năng lực sản xuất, số lượng sản phẩm cung cấp cho thị trường, do đó chi phối được thị trường, quy định giá bán ĐQ cao, giá mua ĐQ hạ và thu được lợi nhuận ĐQ cao. Tổ chức ĐQ chính là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa đế quốc. ĐQ thường gây ra những hậu quả xấu cho nền kinh tế nói chung như hạn chế sản xuất do các công ti nhỏ không có hoặc ít có khả năng cạnh tranh với các công ti độc quyền, do nâng giá hàng hoá làm thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nước phải thi hành những biện pháp đấu tranh chống ĐQ. Trong các nền kinh tế tự do của chủ nghĩa tư bản, nhà nước ban hành những luật cấm hoặc kiểm soát sự tích tụ thái quá của các công ti, các liên minh (vd. luật chống tơrơt của Mĩ, quy chế đối với các liên minh của Pháp và trong Khối Thị trường Chung Châu Âu).
3.Ngoại diên của khái niệm “độc quyền”:
a/ Độc quyền thường:
_Nguyên nhân chính dẫn đến độc quyền thường
+Chính phủ nhượng quyền khai thác một thị trường nào đó: chính quyền địa phương có thể nhượng quyền khai thác rác thải cho một công ty nào đó hay nhà nước tạo ra cơ chế độc quyền nhà nước cho một công ty như trường hợp chính phủ Anh trao độc quyền buôn bán với Ấn độ cho Công ty Đông Ấn.
+Nếu chi phí vận chuyển quá cao, thị trường có thể bị giới hạn trong một khu vực địa lý nào đó và nếu trong khu vực đó có một doanh nghiệp cung cấp sản phẩm thì sẽ dẫn đến tình trạng gần như độc quyền.
+Chế độ bản quyền đối với phát minh, sáng chế và sở hữu trí tuệ: một mặt chế độ này khuyến khích những phát minh, sáng chế nhưng mặt khác nó tạo cho người nắm giữ bản quyền có thể giữ được vị trí độc quyền trong thời hạn được giữ bản quyền theo quy định của luật pháp.
+Do sở hữu được một nguồn lực rất khan hiếm: điều này giúp cho người nắm giữ có vị trí gần như độc quyền trên thị trường. Một ví dụ điển hình là Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng của thế giới và do đó quốc gia này có vị trí gần như độc quyền trên thị trường kim cương.
_Tổn thất phúc lợi xã hội do độc quyền thường gây ra
Do tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất hàng hóa ở mức sản lượng mà tại đó chi phí biên bằng với doanh thu biên thay vì sản xuất ở mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm bằng chi phí biên như trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo (cân bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm không phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong tình trạng độc quyền giá bán sẽ giảm xuống khi doanh nghiệp độc quyền tăng sản lượng. Vì thế doanh thu biên sẽ nhỏ hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp độc quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền nhỏ hơn giá bán sản phẩm đó. Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm được không đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khi lợi ích biên bằng chi phí biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp độc quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng giảm sút trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do độc quyền.
b/Độc quyền tự nhiên:
_Nguyên nhân dẫn đến độc quyền tự nhiên
Một số ngành sản xuất có đặc điểm là những yếu tố hàm chứa trong quá trình sản xuất cho phép đạt được thu nhập tăng theo quy mô hay nói cách khác chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm giảm nếu quy mô tăng. Khi đó một doanh nghiệp lớn cung cấp sản phẩm là cách sản xuất có hiệu quả nhất. Điều này có thể thấy ở các ngành dịch vụ công cộng như sản xuất và phân phối điện năng, cung cấp nước sạch, đường sắt, điện thoại... Lấy ví dụ như ngành cung cấp nước sạch: sẽ là có hiệu quả hơn nếu chỉ một doanh nghiệp cung cấp nước sạch cho một vùng thay vì có hai doanh nghiệp cung cấp với hai hệ thống đường ống dẫn nước đến từng nhà.
_Tổn thất phúc lợi xã hội do độc quyền tự nhiên gây ra
Do chi phí sản suất ra một đơn vị sản phẩm giản dần theo quy mô nên chi phí biên của doanh nghiệp độc quyền tự nhiên có xu hướng giảm và luôn thấp hơn chi phí sản xuất trung bình. Cũng do tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp độc quyền sẽ cung ứng sản phẩm sao cho doanh thu biên bằng chi phí biên. Tại trạng thái đó sản lượng sẽ thấp hơn và giá cao hơn so với trạng thái cân bằng của thị trường cạnh tranh khi mà giá bán hay lợi ích biên bằng chi phí biên. Sự giảm sút sản lượng cũng gây ra tổn thất do độc quyền giống như độc quyền thường. Tuy nhiên nếu như trong trường hợp độc quyền thường, khi bị điều tiết để sản xuất ở mức sản xuất hiệu quả, doanh nghiệp độc quyền vẫn có lợi nhuận (tuy đã bị giảm xuống) thì trong trường hợp độc quyền tự nhiên, nếu sản xuất ở mức sản lượng hiệu quả, doanh nghiệp độc quyền luôn bị lỗ vì giá bán sản phẩm (bằng chi phí biên) thấp hơn chi phí trung bình.
c/Độc quyền bán và độc quyền mua
Khái niệm độc quyền thường dùng để chỉ độc quyền bán nhưng tương tự như độc quyền bán cũng có độc quyền mua - một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ tồn tại một người mua trong khi có nhiều người bán. Khác với độc quyền bán, trong trường hợp độc quyền mua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua sản phẩm từ những người bán. Doanh nghiệp độc quyền bán có thể đồng thời là độc quyền mua và trong trường hợp này lợi nhuận siêu ngạch của nó rất lớn vì bán sản phẩm với giá cao hơn và mua yếu tố đầu vào thấp hơn mức cân bằng của thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền bán có điều kiện thuận lợi để trở thành độc quyền mua vì nó sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi và do đó một vài yếu tố đầu vào của nó có thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố đầu vào không duy nhất thì doanh nghiệp độc quyền bán cũng có khả năng chi phối mạnh giá các yếu tố đầu vào nếu nó có quy mô lớn.
4/Lịch sử khái niệm:
Tiếng Anh: monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp monos (nghĩa là một) và polein (nghĩa là bán).
5/Nghi vấn và bổ sung của người biên soạn:
Có nên hay không việc tồn tại độc quyền?Làm sao để giảm thiểu được những tổn thất mà độc quyền gây ra cho nền kinh tế?
6/Nguồn tài liệu tham khảo:
Sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”
www.bachkhoatoanthu.gov.vn
vi.wikipedia.org
Tư bản (vốn):
1/Tư bản (vốn):
+Tiếng việt:Tư bản (vốn).
+Tiếng Anh:Capital.
+Tiếng Pháp:Capital.
+Tiếng Ý:Capitale.
2/Nội hàm khái niệm “Tư bản”hoặc “vốn”:
Từ "vốn" được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau, nên có nhiều hình thức V khác nhau. Trước hết, V được xem là toàn bộ những yếu tố được sử dụng vào việc sản xuất ra các của cải; V tạo nên sự đóng góp quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Về mặt pháp luật, V của một doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản của mọi người (chủ sở hữu, thành viên...); nó tượng trưng các quyền, nhất là quyền sở hữu, mà một người chiếm hữu V đó được tuỳ ý sử dụng và do đó nhận được thu nhập trong lao động mà không bị phản đối. Về mặt kế toán tài chính, V của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp, bao gồm tiền mặt và hiện vật được sử dụng trong kinh doanh. Giá trị của những tài sản này bất biến nhờ khấu hao.
3/Ngoại diên của khái niệm “tư bản “ hoặc “vốn”:
Trong kinh tế học cổ điển, tư bản/vốn là một trong bốn yếu tố sản xuất. Ba yếu tố còn lại là đất đai, lao động và doanh nghiệp. Những hàng hóa có đặc điểm sau được coi là tư bản:
+Có thể sử dụng để tạo ra hàng hóa khác (đây chính là đặc điểm khiến hàng hóa đó trở thành tư bản)
+Có để tạo ra được, đối lập với đất đai là nguồn lực tồn tại tự nhiên với các đặc điểm như vị trí địa lí, khoáng sản bên dưới.
+Không bị sử dụng hết ngay lập tức trong quá trình sản xuất như nguyên liệu hoặc bán sản phẩm. (Có một ngoại lệ ở đây là khấu hao, giống như bán sản phẩm, khấu hao được coi là chi phí doanh nghiệp).
Những đặc trưng này được kinh tế học tân cổ điển (neoclassical economics) kế thừa với một chút thay đổi cho phù hợp với thời đại. Đó là đưa thêm mục hàng hóa trong kho vào tư bản. Giá trị tư bản lưu kho có thể được xác định tại những thời điểm cụ thể, ví dụ ngày cuối năm 31 tháng 12. Ngược lại, đầu tư, vì lẽ sản phẩm tạo ra làm tăng giá trị của lưu kho (dạng tư bản), được mô tả như một dòng, luồng vốn thực hiện theo thời gian.
Những biểu hiện dễ thấy của tư bản là ở dạng vật chất, như công cụ, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển, v.v.. những thứ được sử dụng trong quá trình sản xuất. Ít ra là kể từ thập niên 1960, các nhà kinh tế học dần tăng sự chú ý đến những dạng phi vật chất của tư bản. Ví dụ, đầu tư vào kỹ năng và giáo dục có thể được xem là bồi đắp nguồn vốn/tư bản con người hoặc vốn hiểu biết, và những đầu tư vào tài sản trí tuệ được con là xây dựng nguồn vốn trí tuệ. Những khái niệm mới mẻ này dẫn đến những khúc mắc và những tranh luận. Lý thuyết phát triển nguồn lực con người mô tả tư bản con người là thực thể bao gồm những yếu tố xã hội, nhân rộng và sáng tạo riêng biệt:
+Nguồn vốn xã hội là giá trị của hệ thống những mối quan hệ đáng tin cậy giữa những cá nhân trong một nền kinh tế.
+Nguồn vốn cá nhân là ưu điểm trong mỗi con người, được bảo vệ bởi xã hội và đem trao đổi để thu về sự tin cậy hoặc tiền bạc. Những khái niệm gần với nó là “tài năng”, “sự tháo vát”, “sự lãnh đạo”, “những kiến thức được đào tạo”, hoặc “những khả năng bẩm sinh”. Đây là nguồn vốn không dễ tạo ra được bằng cách kết hợp các dạng tư bản vật chất và phi vật chất kể trên. Trong kinh tế học cổ điển, nguồn vốn cá nhân đơn giản chỉ nằm trong khái niệm lao động.
Những cách phân loại tư bản/vốn khác được sử dụng trên lý thuyết hoặc áp dụng trong thực tiễn gồm:
+Vốn tài chính là dạng tiền hoặc quyền lợi, quyền sở hữu. Nó ở dạng tài sản vốn, đuợc giao dịch trên các thị trường tài chính. Giá trị của tư bản tài chính không nằm ở sự tích tụ theo thời gian mà ở niềm tin của thị trường vào khả năng sinh lợi và những rủi ro đi kèm.
+Vốn thiên nhiên là những đặc điểm sinh thái và được cộng đồng bảo vệ để duy trì cuộc sống, ví dụ một con sông đưa nước đến các nông trang.
+Vốn cơ sở hạ tầng là hệ thống hỗ trợ do con người tạo ra (ví dụ nhưng chốn ăn ở, đường xá, trang phục, máy tính cá nhân, v.v..), những vật chất sẵn có giúp cho việc đâu tư, xây dựng một doanh nghiệp mới cần ít vốn, nguồn lực hơn. Khác với vốn thiên nhiên, nguồn vốn cơ sở hạ tầng không tự khôi phục và phát triển, chúng cần được xây dựng, bổ sung.
Các nghiên cứu đi đến thống nhất giữa các nhà kinh tế rằng vốn tự nhiên và vốn xã hội đều là tư bản/vốn giống như vốn cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chúng là những dạng tư bản tách biệt. Chúng được sử dụng, phát huy để tạo ra hàng hóa khác và không tiêu dùng hết ngay trong quá trình sản xuất, hơn thế chúng có thể được tạo ra, làm giàu thêm bởi nỗ lực của con người.
Cũng có các nghiên cứu về vốn trí tuệ và luật tài sản trí tuệ. Song, những nghiên cứu này đi vào phân biệt đầu tư tư bản với việc thu thập các giá trị tiềm năng của bản quyền (vốn sáng tạo hoặc vốn cá nhân), bằng phát minh và những dạng nhãn hiệu đăng ký (nguồn vốn xã hội).
4/Lịch sử khái niệm:
“This word comes ultimately from the Latin word for "head". The words capital and cattle come from this same root. Cattle were and are a source of wealth, and are typically measured in terms of how many "head of cattle"”.
Có thể hiểu là:Khái niệm này cơ bản bắt nguồn từ chữ “đầu” trong tiéng Latin.Từ “vốn” và từ “súc vật” có cùng chung một nguồn gốc vì súc vật trong thời xưa là thứ quý giá của con người, được dùng làm thước đo cho giá trị vật chất.
5/Nghi vấn và bổ sung của người biên soạn:
Có quá nhiều cách để phân loại vốn/tư bản.Vậy đâu là cách rõ ràng và hiệu quả nhất?
6/Nguồn tài liệu tham khảo:
Sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”
www.bachkhoatoanthu.gov.vn
vi.wikipedia.org
duckechouk.blogspot.com
Tài sản
1/Tài sản:
+Tiếng Việt:Tài sản.
+Tiếng Anh:Asset.
+Tiếng Pháp:Actif.
+Tiếng Bồ Đào Nha: Ativo.
2/Nội hàm của khái niệm “Tài sản”:
Là thuật ngữ kế toán kinh doanh chỉ tất cả những gì có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cá nhân, một đơn vị hoặc của nhà nước; có thể được dùng để trả nợ, sản xuất ra hàng hoá hay tạo ra lợi nhuận bằng cách nào đó. Một TS có ba đặc tính không thể thiếu: lợi nhuận kinh tế có thể xảy ra trong tương lai; do một thực thể hợp pháp kiểm soát; thu được kết quả ngay từ hợp đồng kinh doanh hoặc giao dịch đầu tiên.
3/Ngoại diên của khái niệm “tài sản”:
a/Tài sản cố định
Tài sản cố định là tư liệu sản xuất chuyên dùng trong sản xuất kinh doanh dùng được vào nhiều chu kì sản xuất.
Có ba loại tài sản cố định:
_Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị...
_Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả...
_Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
b/Tài sản lưu động
Là tư liệu sản xuất chỉ dùng được trong một chu kỳ sản xuất. Đó là tổng thể nói chung tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và những khoản có thể chuyển ngay thành tiền mặt, như thương phiếu, v.v.
c/Tài sản hữu hình
Bao gồm những vật(có những điều kiện nhất định)tiền và giấy tờ có giá.(ngôn ngữ luật học).Tài sản hữu hình là những cái có thể dùng giác quan nhận biết được hoặc dùng đơn vị cân đo đong đếm được.Điều kiện để vật trở thành tài sản là một vấn đề còn tranh cãi rất nhiều. Bởi vì khi vật không thuộc của ai gọi là vật vô chủ không ai gọi là tài sản vô chủ cả.khi nói đến tài sản hữu hình bắt buộc chúng phải có một số đặc tính riêng như:
+Thuộc sở hữu của ai đó;
+Có đặc tính vật lý;
+Có thể trao đổi được;
+Có thể mang giá trị tinh thần hoặc vật chất;
+Là những thứ đã tồn tại(tài sản trước kia) đang tồn tại và có thể có trong tưong lai.
Tài sản hữu hình khi có càng nhiều đăc tính nêu trên thì càng chắc chắn đó là tài sản hữu hình.
d/Tài sản vô hình
Là những quyên tài sản (nghĩa hẹp) thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định và thường chỉ gắn với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao. Tuy nhiên một số quyền tài sản có thể chuyển giao như thương hiệu hàng hóa hoặc ủy quyền cho chủ thể khác. Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng giác quan để thấy được và không thể dùng đại lương để tính. Nhưng trong quá trình chuyển giao có thẻ quy ra tiền (cái này là quan trọng nhất). Tùy từng thời điểm nhất định mà quyền tài sản có giá như thế nào. Việc gây thiệt hại về tài sản vô hình của chủ thể sẽ phải bồi thường nhưng rất khó để xác định giá trị của nó. Ngoài những quy định trong luật còn việc xác định giá trị của tài sản vô hình không thể xác định được.
4/Những nghi vấn và bổ sung của người biên soạn:
Tài sản trí tuệ là một phần của tài sản vô hình. Tuy nhiên, định nghĩa thế nào là tài sản vô hình là điều không dễ. Nôm na là tất cả những gì không sờ mó được nhưng lại có thể mang lại giá trị thặng dự được tính thành tiền thì đều gọi là tài sản vô hình
có rất nhiều thứ vô hình có thể được khai thác để làm ra tiền bạc. Những thứ như vậy chính là tài sản vô hình. Luật Thuế thu nhập của Mỹ tại khoản 1.482-4(b) định nghĩa tài sản vô hình là một tài sản có giá trị thực "độc lập với dịch vụ của bất kỳ một cá nhân nào". Sáu loại tài sản
+Các sáng chế,phát minh,công thức,quy trình,mô hình,kỹ năng.
+Bản quyền.
+Thương hiệu,tên thương mại,nhãn hiệu hàng hoá.
+Quyền kinh doanh,giấy phép.hợp đồng.
+Phương pháp,chương trình,hệ thống,thủ tục,khảo sát,nghiên cứu,dự báo,dự toán,danh
sách khách hàng,số liệu kỹ thuật.
+Các thứ "tương tự" khác. Một thứ được gọi là "tương tự" nếu nó tạo ra giá trị không phải nhờ vào các "thuộc tính vật chất", mà nhờ vào "nội dung trí tuệ hoặc các quyền tài sản vô hình khác của nó".
5/Nguồn tài liệu tham khảo:
Sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”
www.bachkhoatoanthu.gov.vn
vi.wikipedia.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24887.doc