MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 3
1. Tìm hiểu mối liên hệ giữa văn học và báo chí 3
2. Văn học và Báo chí - hai hướng nhìn 5
2.1. Văn học 5
2.2. Báo chí 6
2.3. Những mối tương quan giữa văn học và báo chí 7
2.4. Mối tương quan giữa ký văn học và ký báo chí 10
3. Ký văn học và ký báo chí trong xã hội hiện đại 16
4. Xu hớng phát triển của thể loại ký (văn học và báo chí) trong dòng chảy hiện đại 17
4.1. Phóng sự tiếp tục xung kích đi đầu 17
4.2. Những yếu tố khiếm khuyết của diện mạo nền văn học và báo chí nước nhà 20
KẾT LUẬN 23
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3011 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về ký báo chí trong mối liên hệ với ký văn học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông đúc trong thành phố. Người xem dần dần thành nếp dẫn đến hình thành nhu càu phổ biến. Các nhà kinh doanh chuyển từ phát không sang bán lấy tiền với giá một đồng tiền Vơnidơ cho mỗi bản tin. Tên gọi đồng tiền đó là “Ga-det-ta”. Từ Ga-det-ta dần dần biến thành tên gọi các bản tin đó.
Tuy nhiên, báo chí chỉ thực sự ra đời cùng với chủnghĩa tư bản ở châu Âu từ cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII trên có sở của sự phát triển về kinh tế và xã hội. Đặc biệt những tiến bộ trong khoa học kĩ thuật đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển hơn nữa, trong đó có báo chí với sự phát minh ra máy in. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu tiên nó chỉ đóng vai trò khiêm tốn trong xã hội và nhà báo cũng không thực sự được coi trọng.
Báo chí có nhiệm vụ thông tin về cái mới- những con người mới, sự việc, sự kiện, tình huống mới…tiêu biểu nảy sinh hàng ngày hàng giờ trong đời sống. Nó phản ánh hiện thực đúng như mọi trạng thái tồn tại có thực và luôn luôn chịu sự chi phối gắt gao của áp lực thời sự. áp lực này có khi đòi hỏi gay gắt đến từng phút. Chính đặc điểm này đẫ chi phối một cách toàn diện, kể từ dung lượng, ngôn ngữ, bút pháp cho đến cách thức tổ chức tác phẩm và hàng loạt yếu tố khác của các thể loại báo chí. Báo chí nhằm thoả mãn nhu cầu được cung cấp thông tin để có sự hiểu biết về những sự thật nóng hổi, sinh động, từ đó tạo cơ sở cho nhận thức, tư duy và hành động. thông tin báo chí vừa cố gắng đảm bảo một thái độ khách quan, đồng thời lại không che giấu thái độ thẩm định của nhà báo trên cơ sở một quan điểm chính trị nhất định. Điều đó cho thấy mặc dù có nhiều điểm tương đồng nhưng báo chí và văn học là những hình thái tư duy có phương pháp không giống nhau trong việc tiếp cận và phản ánh đời sống.
2.3. Những mối tương quan giữa văn học và báo chí
Khác với báo chí, văn học mang bản chất nghệ thuật. Mặc dù trong một số trường hợp, có những tác phẩm báo chí nhưng xét về bản chất, hiện thực được phản ánh trong tác phẩm văn học là hiện thực thẩm mỹ, gắn liền với thế giới quan thẩm mỹ của nhà văn. Đặc điểm quan trọng này vẫn được thể hiện trong các tác phẩm phản ánh về những con người và sự việc có thật trong đời sống như các tác phẩm thuộc loại thể chính luận nghệ thuật và ký văn học.
Báo chí có nhiệm vụ thông tin thời sự về người thật việc thật nhằm tác động vào nhận thức lý tính của công chúng. Chính điều đó đã chi phối toàn bộ những khía cạnh có liên quan đến hoạt động báo chí nói chung. Hiện thực trong tác phẩm báo chí phải là hiện thực tươi rói, nguyên vẹn, một hiện thực còn chưa bị “chưng cất” theo quan niệm thẩm mỹ như trong tác phẩm văn học. Để phản ánh một thế giới hiện thực chứa đầy thông tin, báo chí có một hệ thống thể loại khác biệt so với hệ thống các thể loại văn hoá. Hiện nay, báo chí là một hoạt động thông tin đại chúng nhất, năng động nhất với những tác động mạnh mẽ và trực tiếp vào sự phát triển của xã hội.
Trên cơ sở so sánh với văn học và những hình thức phản ánh hiện thực khác, có thể xác định những đặc điểm cơ bản về nội dung và hình thức của tác phẩm báo chí phải đáp ứng được những yêu cầu là: thông tin về hiện thực phải đảm bảo tính chính xác một cách tối đa, tính thời sự ngặt nghèo và tính định hướng trực tiếp. Trong đó yêu cầu về tính xác thực đòi hỏi không được bịa đặt hoặc thêm bớt một cách tuỳ tiện trong qua trình thông tin sự thật. những sự kiện trong báo chí phải đợc tái hiện chính xác và cụ thể về địa điểm, thời gian, không gian và nhân chứng. Yêu cầu về tính thời sự đòi hỏi báo chí phải phản ánh kịp thời về những cái tiêu biểu mới xảy ra, đang xảy ra, chắc chắn sẽ xảy ra, đôi khi gay gắt đến từng phút. Tính định hướng trực tiếp được nhấn mạnh để đảm bảo cho những thông tin được đăng tải thể hiện một thái độ chính trị rõ ràng trước sự thật. Về phương diện hình thức, ngắn gọn và đơn giản, dễ hiểu là đặc điểm chung của tác phẩm báo chí.
Trong quá trình phát triển, báo chí luôn có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác như văn học, chính trị, triết học, lịch sử…Đó là mối liên hệ có tính qui luật, gắn liền với chức năng thông tin của báo chí. Trong thực tế đời sống báo chí thường xuất hiện một số thể loại có thể kết hợp tính chât báo chí với văn học và các hình thức khác như lịch sử, ghi chép tư liệu, báo cáo…Riêng mối quan hệ giữa văn học và báo chí có thể coi là một mối quan hệ đặc biệt. Tuy nhiên, ở những thời kì trước đây đã từng có quan niệm cực đoan, đề cao một phía nên đã tạo ra những đối lập giữa nhà văn-nhà báo nói riêng, giữa văn học và báo chí nói chung. Điển hình trong số đó là quan niệm của Hoài Thanh. Trong đó, mặc dù vẫn nhận thấy vai trò quan trọng của nhà báo trong việc “nhắm vào xã hội hiện thời, công kích những điều không hay, hô hào những điều hay, luôn luon đi bên cạnh những ngời hèn yếu” nhưng ông lại đi đến những so sánh thiên lệch. “Nhà báo chỉ mong thay đổi một thời, nhà văn có cái hi vọng ảnh hưởng đến lòng người mãi mãi; nhà văn muốn trao mỹ cảm cho ngời xem, nhà báo nếu có ước muốn ấy sẽ thành nhố nhăng rồ dại”.
Mặc dù có những khác biệt về đặc trưng và phương thức tác động nhưng chính những quy luật thông tin phản ánh hiện thựcđã tạo ra mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa hai hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tàn vốn có nhiều điểm tơng đồng này. Nói về vấn đề này, trước đây, một nhà văn đồng thời là nhà báo của Cuba cho rằng: “Ngời làm báo viết chuyện sốt dẻo, sử dụng chất liệu sống động diễn ra hàng ngày. Còn nhà viết tiểu thuyết ngắm nghía từ xa, qua một phối cảnh cần thiết, như là một sự kiện đẫ đày đủ và hoàn thành.” Về khái niệm nhà văn và nhà báo, ông khẳng định: “Riêng tôi nghĩ rằng không bao giờ phân biệt được hai chức năng nhà văn và nhà báo vì nhà văn hay nhà báo cũng đều hoà chung trong một nhân cách.” Như vậy ta có thể thấy, thông tin trong văn học và trong báo chí là một quá trình liên tục, xuyên suốt trong mối quan hệ chặt chẽ giữa tác giả - tác phẩm – công chúng. Đó cũng là một đặc điểm chung của mọi hình thái ý thức, được thể hiện rất rõ trong quá trình sáng tạo tác phẩm văn học và báo chí.
Trong cuốn cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Giáo sư Hà Minh Đức dành hẳn một mục để bàn về “văn học và báo chí”. Về đối tượng nhận thức, ông cho rằng văn học và báo chí là hai hoạt động tinh thần có khả năng nhận t hức, miêu tả xã hội lớn nhất. Báo chí là tấm phiên bản của xã hội, nó phản ánh dòng chảy của cuộc sống, thông tin cho công chúng về mọi điều mà họ quan tâm “nhà báo - con ngời hoạt động tích cực tắm giữa dòng sự kiện, lăn lộn với thực tế xã hội đợc xem là nhân chứng của thời cuộc”. Văn học cũng thực hiện chức năng khám phá sáng tạo theo đặc trng riêng của nó. Trong văn học, việc phê phán cái ác, cái xấu, khẳng định chân thiện mỹ, góp phần xây dựng nhân cách tốt đẹp của con người là mục tiêu của các nhà văn tiến bộ trong quá khứ, hiện tại và tơng lai. Trong những điểm tương đồng và khác biệt giữa văn học và báo chí, tác giả đặc biệt lu ý đến ngôn ngữ. Ông nhấn mạnh: “Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí đều đợc xem là ngôn ngữ chuẩn mực, tiêu biểu cho ngôn ngữ dân tộc ở từng thời kì nhất định. So với ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ văn học giàu hình ảnh và sức biểu cảm, nhiều từ ngữ được dùng theo những ý đồ nghệ thuật riêng.”
Cũng theo nhận xét của Giáo sư Hà Minh Đức, đứng trước cuộc sống, văn học và báo chí đều bình đẳng với tư cách là những hình thái ý thức xã hội đặc thù. Nếu như đã có những tác phẩm văn học trường tồn với thời gian thì vẫn có những tác phẩm báo chí trải qua hàng trăm năm vẫn giữ nguyên giá trị. Bài báo “Sáng kiễn vĩ đại” (ngày 28/6/1919) của Lênin đã trở thành cương lĩnh hành động cho những ngời cộng sản và toàn thể nhân dân Liên Xô thời kì ấy. Tác phẩm Hành hình kiểu Linsơ, một phương diện ít người biết đến của văn minh Mỹ (ngày 9/10/1924) của nhà báo cách mạng Nguyễn ái Quốc là một bằng chứng lịch sử chỉ ra bản chất tàn bạo của bọn đế quốc ở bất cứ nơi nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào. ở Việt Nam, những tấm ảnh của Võ An Ninh về nạn đói 1945 hay những thước phim tư liệu về cảnh xe tăng ta xông vào húc đổ cổng Dinh Độc lập ngày 30/4/1975 đã ghi lại những khoảnh khắc không bao giờ quên và không bao giờ lặp lại. Khoảnh khắc ấy trở thành vĩnh viễn. Đó chính là một trong những cơ sở để cái nhất thời có thể trở thành cái lâu dài.
2.4. Mối tương quan giữa ký văn học và ký báo chí
Khẳng định sự khác biệt của ký văn học và ký báo chí không có nghĩa là phủ nhận quá trình giao thoa, thâm nhập và chuyển hoá giữa chúng. Trong thực tế, ký văn học và ký báo chí có mối quan hệ chặt chẽ và thờng xuyên tác động qua lại với nhau. Đó là một quy luật trong quá trình vận động phát triển của đời sống văn học và báo chí đợc biểu hiện trớc hết ở việc phản ánh những sự thật sinh động của đời sống. Cũng giống như người viết ký báo chí, tác giả ký văn học phải lăn xả vào cuộc sống đang vận động phát triển, trực tiếp lắng nghe hơi thở của cuộc sống ấy và lựa chọn trình bày những sự thật thông qua vai trò của cái tôi trần thuật.
Trong những ngày rung chuyển của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, Giôn Rit - nhà văn, nhà báo Mỹ đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe một cách trung thực và cặn kẽ trong Mời ngày rung chuyển thế giới - một tác phẩm vừa giống như phóng sự ký sự, lại có cả tính chất của nhật ký. Có thể nói trong mấy trăm trang của cuốn sách này đầy ắp những sự việc được tác giả ghi chép cụ thể và chi tiết giống như một cuốn phim.
Chính do việc lựa chọn từ những điển hình có thật trong đời sống để xây dựng hình tượng nghệ thuật đã khiến cho các thể ký văn học có quan hệ với báo chí một cách tự nhiên. Nói cách khác, chính quy luật phản ánh về những sự thật của đời sống đã tạo ra những nét tương đồng của hai loại ký, còn sự khác biệt giữa chúng chịu sự chi phối do những khác biệt về đặc trưng của văn học và báo chí.
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều tác phẩm ký văn học không những thể hiện sinh động những phẩm chất văn học mà còn có khả năng đáp ứng được yêu cầu thời sự của báo chí và ngược lại, đã có không ít tác phẩm ký báo chí lại thể hiện đợc những phẩm chất văn học sinh động. Có thể minh chứng cho điều này bằng những tạp văn của văn hào Lỗ Tấn. Bên cạnh đó, trong nhiều tác phẩm của nhà báo Nguyễn ái Quốc đã từng gây ấn tượng sâu sắc với công chúng nớc Pháp từ đầu thế kỷ XX, về phương diện rất khó có thể chỉ ra đâu là tiểu phẩm, là ký chính luận hay ký chân dung. Ngay trong giọng điệu cũng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa căm thù, phẫn nộ xót xa, thương cảm…
Trong số các nhà báo viết tạp văn, tiểu phẩm ở nước ta, Ngô Tất Tố là một trong những cây bút hàng đầu. Tạp văn, tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là những bằng chứng sinh động về giao thoa giữa báo chí và văn học. bằng việc phản ánh một cách kịp thời và sắc bén về những sự thật trong đời sống, tác phẩm của ông vừa có giá trị báo chí vừa có giá trị văn học. Đó là mức độ điển hình của những sự việc và con người được đề cập và do những biện pháp nghệ thuật phong phú, linh hoạt với bút pháp châm biếm sắc sảo…Với lòng yêu nước nồng nàn và sự gắn bói chặt chẽ với nhân dân, được sự hậu thuẫn của các phong trào cách mạng, tạp văn, tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã trở thành một vũ khí sắc bén chĩa vào kẻ thù và những đồi phong bại tục trong xã hội cũ. Ông đã đề cập đến hàng loạt vấn đề điển hình của cái xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Ngoài ra, còn có nhiều chân dung kẻ thù được ông phác hoạ theo lối biếm hoạ rất thành công. Theo GS Phan Cự Đệ, “văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là một phòng triển lãm những chân dung khác nhau của giai cấp thống trị và những kiểu ngời điển hình trong xã hội cũ”.
Ký văn học phản ánh sự thật, mà trong bản thân sự thật đã chứa đựng những yếu tố thẩm mỹ. Cuộc sống vô cùng phong phú, nhiều khi tự nó sản sinh ra những con người, sự việc, hoàn cảnh, tình huống…điển hình mà ngay cả một nhà văn giàu tưởng tượng nhất cũng không tưởng tượng ra được. Nhà văn Nguyễn Khải đã có những nhận xét sắc sảo về vấn đề này: “Làm sao mà tưởng tượng cho hết cái mà đời sống đã có thực? làm sao mà tạo ra được nhiều tình tiết như đời sống đã tạo ra. Thực tế là ông thầy của chúng ta, một ông thầy luôn luôn làm cho ta phải thất vọng và ghen tuông.” Nhà viết ký xuất sắc B. Pôlêvôi của Liên Xô trớc đây cũng đã từng nói: “Cuộc sống chúng ta muôn hình muôn vẻ nh thế, biết bao sự việc xảy ra, thực sự cũng không cần thiết phải hư cấu thêm thắt, tô vẽ gì thêm nữa.” Từ những năm 60, nhà thơ Chế Lan Viên đã so sánh một cách đầy thuyết phục: “Đã có Xêch-pia nào nghĩ ra được một con mụ quái ác như Lệ Xuân? Có nhà sư hổ mang nào trong Thuỷ Hử lại giống Thích Tâm Châu được? Chả bao giờ ai nghĩ ra được cái địa ngục nào hơn chuồng cọp ngoài Côn Đảo. Và Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn trỗi, út Tịch, Tạ thị Kiều…thực sự là những sáng tạo của lịch sử, nhà nghệ sĩ thiên tài.”
Có thể lấy ví dụ băng những lá thư của Tập từ chuyến đầu Tổ quốc đã từng gây xúc động mạnh mẽ không chỉ với nhân dân ta mà với toàn nhân loại. Những lá thư được viết từ trong lửa và máu ấy là bằng chứng sinh động, hùng hồn về tội ác của bọn đế quốc mỹ và tay sai gây ra trên đất nớc ta và tinh thần quật khởi của đồng bào miền Nam trong những năm tháng khi đất nước còn bị chia cắt. Những tội ác man rợ của kẻ thù cùng những câu chuyện về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam được kể lại trong những lá thư ấy tuy không có mục đích văn chương nhưng đã gây cho người đọc những cảm xúc mạnh và sâu sắc. Trong bão tố của cuộc chiến đấu một mất một còn, chống giặc trong gian khổ và tang tóc, đồng bào Miền Nam vẫn tỏ ra lạc quan, yêu đời, vững lòng tin ở sức mạnh của mình, vững lòng tin ở tương lai và thắng lợi cuối cùng. Sức sống mãnh liệt mà Từ tuyến đầu Tổ quốc có được trước hết chính là ở sức mạnh của sự thật đau thương và hào hùng. “Qua những bức thư của ngời thân gửi cho ngời thân, bạn đọc đã tìm đợc câu trả lời dứt khoát cho nhiều vấn đề lớn mà thời đại dang đặt ra trong tâm tư, tình cảm của mỗi chúng ta”[129, tr.3].
Sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt và những năm đầu của thời hậu chiến, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới và chính trong bối cảnh này những sự thật bị quên lãng. Những sự thật ấy đã trở thành nguồn đề tài vô cùng hấp dẫn, sinh động cho các tác phẩm ký văn học và ký báo chí. Điều đó lý giải vì sao trong thời kỳ đổi mới, các thể loại năng động như bút ký, bút ký chính luận, tạp văn, tiểu phẩm và nhất là phóng sự lại được sử dụng nhiều hơn cả.
Riêng với thể loại phóng sự, với khả năng khám phá, phơi bày, điều trần về những sự thật của đời sống một cách năng động đã thể hiện một cách rất sinh động sự giao thoa giữa văn học và báo chí nói chung, giữa ký văn học và ký báo chí nói riêng.
Như đã trình bày ở những phần trước, ngay từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX ở nớc ta đã có một cuộc “bùng nổ” của phóng sự. Hiện tượng này có nguyên nhân gắn liền với những mâu thuẫn đa dạng của một giai đoạn lịch sử đầy những biến động khốc liệt. Do đặc điểm của tình hình này, các tác phẩm phóng sự cũng thể hiện những khuynh hướng khác nhau: Có loại được viết ra để nhằm ca ngợi chế độ thực dân, đề cao những kẻ đi “bảo hộ”, xuyên tạc cách mạng tháng Mời Nga nhằm xoá nhoà đấu tranh giai cấp. Tiêu biểu cho loại này là một số phóng sự như: Mời ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật ký(Phạm Quỳnh): Hãn mạn du ký ( Nguyễn Bá Trác). Khuynh hướng thứ hai là những phóng sự tỏ thái độ hoài nghi, bi quan như Tôi buônlậu, Hà Nội lầm than ( Trọng Lang)… Nhưng khuynh hướng nổi bật nhất là những phóng sự viết về cuộc sống của những con người bần cùng, đề cập đến những bất công trong xã hội nhng lại không đề ra được biện pháp giải quyết hoặc chỉ đề ra những biện pháp cải lương. Đó là những tác phẩm như Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố): Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô, Lục xì(Vũ Trọng Phụng); Tôi kéo xe(Tam Lang)…
Sự bùng nổ của phóng sự trong những thập niên đầu thế kỷ XX ở Việt Nam là một hệ quả tất yếu do sự hội tụ của hàng loạt yếu tố: sự dồn nén của những mâu thuẫn trong đời sống; phong trào cách mạng phát triển; sự tha hoá xuống cấp của đạo đức xã hội; sự giao lu văn hoá, sự phát triển của chữ quốc ngữ tạo cơ sở cho sự phát triển của báo chí và nền văn học hiện đại v.v… Hiện tợng này cũng giống như những năm đầu của thời kỳ đổi mới – một thời điểm xuất hiện hàng loạt những mâu thuẫn như: hậu quả của tư duy cũ và nền kinh tế bao cấp trì trệ, những vấn đề của thời kỳ hậu chiến; những mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trờng v.v…
Những nét gần gũi, tương đồng của phóng sự đầu thế kỷ và phóng sự hiện đại ở nớc ta trước hết đã xuất phát chính từ những đặc điểm cơ bản của thể loại. Việc phản ánh hiện thực dưới dạng một bức tranh toàn cảnh cho thấy phóng sự có thể mở ra một trường quan sát linh hoạt trước đời sống. Với năng lực khám phá, phơi bày, điều trần những mâu thuẫn của đời sống xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: “Người viết phóng sự chân chính bao giờ cũng là người bênh vực lẽ phải, bênh vực sự công bình”. Điều đó cho thấy trong phóng sự, tác giả không chỉ là người ghi chép mà còn phải là người có khả năng phân tích thực tế.
Điểm chung của phóng sự ở hai thời kỳ lịch sử được thể hiện trước hết ở việc khám phá, phơi bày những bí mật trong đời sống và nhất là ở xu hướng bám sát những đề tài đa dạng, đời thường. Trong phóng sự những năm 30 - 45, đó là những chuyện cờ bạc bịp bợm (Cạm bậy ngời), chuyện về những ngời phụ nữ có “nghề” lấy Tây (Kỹ nghệ lấy Tây), chuyện đĩ điếm (Làm đĩ), chuyện những người nông dân kéo ra thành thị để “tìm đến một cái chết khác”(Cơm thầy cơm cô); chuyện những ngời phu kéo xe tay ở Hà Nội (Tôi kéo xe); chuyện về những hủ tục ở nông thôn, ( trong các tập phóng sự Việc làng, Tập cái đinh).v.v…
Phóng sự của thời kỳ đổi mới cũng bám sát những đề tài tương tự như vậy một cách rất năng động. Đó là những câu chuyện về nhân vật huyền thoại Tạ Đình Đề, về Hoả Lò, về ông già ôm 7 kilogam đơn “ đi tìm công lý”…(trong các phóng sự Xuân Ba); về số phận bi kịch của những ngời lính và gia đình họ thời kỳ hậu chiến (trong các phóng sự của Minh Chuyên)… Phóng sự hiện đại cũng không bỏ qua những câu chuyện đời thờng: chuyện “rợu ta ở bên Tây”( của Xuân Ba); chuyện “ vợt cạn thời dịch vụ”, chuyện những người đi bán sức lao động ( của Huỳnh Dũng Nhân)
Cũng giống như phóng sự đầu thế kỷ, trong phóng sự hiện đại nhân vật trần thuật vẫn giữ vai trò là nhân tố quyết định trong việc tạo ra giọng điệu riêng gắn liền với bản sắc của cá nhân tác giả. Đó là một cái tôi hoạt bát, năng động, vừa lý trí vừa cảm xúc. Trong phóng sự giọng điệu rất phong phú, sinh động: khi nghiêm túc, lý lẽ, lúc hài hước, châm biếm và khi lại tràn đầy cảm xúc … Giọng điệu linh hoạt cùng với nghệ thuật dẫn chuyện, nghệ thuật trình bày chi tiết, nghệ thuật miêu tả, đặc tả… đã khiến cho phóng sự có đầy đủ khả năng phản ánh hiện thực trong nhiều trạng huống khác nhau một cách sinh động… Trong bối cảnh của nền báo chí đổi mới hiện nay ở nước ta, phóng sự vẫn đang chứng tỏ sự thích ứng đặc biệt của nó trong việc phản ánh sự phát năng động và đa dạng của đời sống hiện thực.
Trong những năm gần đây, báo chí và văn học nước ta có sự vận động biến đổi rất nhanh nên việc nhận diện các thể loại càng trở nên khó khăn hơn. Trong khi đó, phóng sự văn học và phóng sự báo chí lại có khả năng phản ánh hiện thực một rất linh hoạt năng động nên khó có thể trói buộc chúng trong một cái khuôn đặc trưng đặc điểm nào đó. Trong thực tế, nhiều tác phẩm phóng sự đã thể hiện sự giao thoa, thâm nhập rất mạnh mẽ của văn học và báo chí ở việc đem đến công chúng những sự thật điển hình không chỉ bằng lối tư duy logic mà còn nhiều xúc cảm…
Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không thể xác định được vị trí và tính chất của các thể loại này. Khi đứng trước những tác phẩm kết hợp được đặc điểm của những thể và loại khác nhau, tiêu chí căn bản để đánh giá tác phẩm trước hết là ở giá trị của thông tin và hiệu quả tác động mà nó đem lại.
Nói tóm lại, không thể phủ nhận quá trình giao thoa, thâm nhập trên nhiều phương diện của ký văn học và ký báo chí. Trong thực tế, quá trình đó sẽ còn tiếp tục xảy ra như một động lực của sự vận động phát triển. Quá trình này có thể là tự nhiên nhưng cũng có thể là kết quả từ ý đồ sáng tạo chủ quan của tác giả nhằm tạo cho tác phẩm những phẩm chất mới. Tất nhiên trong trường hợp đó sự sáng tạo phải dựa trên cái nền của kiến thức, của kinh nghiệm và tài năng. Những tác phẩm như vậy có thể tạo ra những hiệu quả rất bất ngờ.
* Sự khác biệt giữa ký văn học và ký báo chí
Trong cuốn "Ký báo chí của Đức Dũng đã có nhiều câu hỏi mà các nhà nghiên cứu đạt ra: "Ký có phải là văn học không? Nếu là văn học, ký đứng ở vị trí nào trong hệ thống?
Cùng với sự đổi mới của đất nước, báo chí và văn học của chúng ta cũng ngày thêm đa dạng và sâu sắc. Các tác phẩm ký trong văn học và báo chí dã cố gắng phản ánh ngày một sinh động hơn hiện thực muôn màu của cuộc sống.
Nhìn chung, ký văn học và ký báo chí đều viết về người thật việc thật. Tính hấp dẫn thuyết phục của ký trước hết và chủ yếu là ở chính sự việc, con người có thật đựơc phản ánh trong tác phẩm. Ký có thể đem đến cho công chúng nét tươi mới và sinh động của hiện thực, những thông tin đáng tin cậy và những giá trị về nghệ thuật.
Bên cạnh những nét chung đó, ký văn học và ký báo chí cũng có nhiều điểm khác biệt. Mỗi thể loại lại có những đặc trưng riêng như đã nêu ở phần trên.
3. Ký văn học và ký báo chí trong xã hội hiện đại
3.1. Bức tranh diện mạo của nền văn học và báo chí hiện đại
* Văn học:
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, công cuộc đổi mới đã mở ra sự phát triển mạnh mẽ và quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội của đất nước. Sự bùng nổ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện cho văn học và báo chí ngày càng phát triển.
Trong văn học, những dấu hiệu đổi mới đã xuất hiện từ đầu những năm 80. Bối cảnh mới với những tác động cuả nền kinh tế thị trường đã tạo ra một trạng thái tinh thần xã hội mới, dần thay thế hệ văn hóa tinh thần ổn định mang tính cộng đồng trước đó. Những biến đổi sâu sắc ấyđã tạo ra những cơ sở quan trọng cho toàn bộ nền văn học Việt Nam chuyển mình trên tất cả các phương diện. Cách nhìn tập trung sâu hơn vào những mối quan hệ cá nhân với xã hội đã dần dần thay thế cách nhìn sử thi truyền thống. Thể tài Lịch sử - xã hội dần dần chuyển sang thể tài thế sự đời tư, gắn liền với những tính cách cá nhân con người với đời sống nội tâm phong phú, trong những hoàn cảnh điển hình. Tính chất giáo huấn trực tiếp đã được thay thế bằng lối tiếp cận đa chiều, đa diện. Sự phân hoá phân cực một cách đa dạng, cách nhìn đa chiều và mạng đạm dấu ấn cá nhân đã có những tác động trực tiếp vào dời sống văn học, thể hiện ở quan điểm sáng tác, đề tài, thể loại và kể cả trong thái độ tiếp nhận của công chúng…Những đặc điểm quan trọng ấy đã tạo nên sự biến đổi của tất cả các thể loại văn học.
* Báo chí:
Về báo chí, chúng ta đang sống trong một giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của báo chí Việt nam từ trớc đến nay. Báo chí đã tham gia vào tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng, chính trị …và ngày càng trở thành một lực đẩy sôi động, một vũ khí sắc bén trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với việc tham gia mạng thông tin điện tử toàn cầu và mở rộng diện phát sóng truyền hình và phát thanh tới một số nước trong khu vực và trên thế giới, báo chí đã góp phần quan trong trong việc thực hiện đường lối đối ngoại và chủ trương hội nhập của Đảng và nhà nớc ta. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, trình độ báo chí của Việt Nam nhìn chung còn thấp.
4. Xu hớng phát triển của thể loại ký (văn học và báo chí) trong dòng chảy hiện đại
Trong bối cảnh của đời sống văn học và báo chí hiện nay, bên cạnh việc thẻ hiện những đặc điẻm tương đối ổn định, các thể ký văn học vàký báo chí đang vận động phát triển theo xu hướng chủ yếu sau:
4.1. Phóng sự tiếp tục xung kích đi đầu
Trong những năm đầu đổi mới, khi các thể loại văn xuôi đang tìm đường đi thì thể loại phóng sự đã có một vai trò đột phá. Không giống như sự bùng nổ của các tác phẩm phóng sự văn học trong những thập kỷ 20,30 của thế kỷ trớc, lần này chủ yếu là sự bùng nổ của các tác phẩm phóng sự báo chí nhưng thể hiện khá sinh động tính chất văn học. Chính sự xuất hiện đột ngột và mạnh mẽ của phóng sự với một cách nhìn mạnh dạn và thẳng thắn trước những vấn đề nóng bỏng của thực tế đã tạo ra những tác đông tích cực sang các thể loại khác. Tác phẩm phóng sự vừa đáp ứng yêu cầu thông tin thời sự, đồng thời còn gây xúc động cho công chúng bằng những sự thật xác thực giàu chất nhân văn được trình bày qua giọng điệu sinh động và linh hoạt.
Phóng sự thường xuất hiện trong những hoàn cảnh có vấn đề, ở những thời điểm cuộc sống đang có những chuyển biến mạnh mẽ với những mâu thuẫn đang đặt ra gay gắt. Với khả năng phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp, tác phẩm phóng sự có khả năng khám phá phơi bày
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TBC 84.doc