Tiểu luận Tìm hiểu xu hướng và hành vi người tiêu dùng phía Bắc về sản phẩm Bánh kẹo của Công ty Bánh kẹo Hải Hà

I. Nhận dạng doanh nghiệp trên các phương diện

1. Lịch sử ra đời và phát triển

2. Loại hình doanh nghiệp

3. Lĩnh vực kinh doanh

4. Quy mô và cơ cấu tổ chức

II. Mô tả và đánh giá tổng hợp môi trường kinh doanh của doanh nghiệp

1. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô

2. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô

III. Mô tả và đánh giá tổng hợp năng lực và các điều kiện kinh doanh ở bên trong doanh nghiệp.

1. Khả năng tài chính, vốn liếng

2. Cơ sở vật chất kỹ thuật

3. Tình hình lao động

4. Tổ chức và quản lý

IV. Mô tả và đánh giá tổng hợp về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian qua.

1. Doanh số và khối lượng bán

2. Tỷ phần thị trường

3. Chi phí, thu nhập, lỗ lãi

V. Mô tả và đánh giá tổng hợp về tình hình hoạt động Marketing của doanh nghiệp thời gian qua.

1. Những vấn đề chiến lược

2. Những giải pháp về Marketing - Mix

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3256 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu xu hướng và hành vi người tiêu dùng phía Bắc về sản phẩm Bánh kẹo của Công ty Bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất kẹo nha - Giấy tinh bột + Giai đoạn từ 1976 - 1985: - Mở rộng nhà máy áp dụng thành công dây truyền sản xuất kẹo chuối xuất khẩu. + Giai đoạn từ 1986 đến nay: Công ty chuyên sản xuất các loại bánh kẹo như: kẹo cứng, bánh snach, cookies, bánh tươi, kẹo cao su … Ngoài ra, Công ty bánh kẹo Hải Hà còn liên doanh với Hãng Miwon chuyên sản xuất mì chính. V. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Cơ cấu tổ chức của Công ty được biểu diễn qua sơ đồ sau: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của Công ty Qua sơ đồ trên ta thấy bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyết chức năng, bao gồm ban lãnh đạo, các phòng ban trực thuộc quản lý và phục vụ sản xuất. Với kiểu tổ chứ bộ máy như trên, Công ty đã phân định trách nhiệm cho từng phòng ban, giúp các phòng ban này có thể linh động và sáng tạo trong việc tổ chức sản xuất. Bộ máy này được tổ chức như sau: - Ban lãnh đạo gồm 4 người: + Tổng giám đốc: là người có quyền cao nhất, quyết định chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và chịu trách nhiệm trước Công ty cũng như hai Công ty liên doanh, Bộ công nghiệp và nông nghiệp. + Phó tổng giám đốc kỹ thuật - sản xuất: chịu trách nhiệm về chỉ đạo, kiểm tra kỹ thuật để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất. Cụ thể là giám sát hoạt động của phòng kỹ thuật và phòng KCS, các xí nghiệp trên khía cạnh an toàn sản xuất, an toàn lao động; nghiên cứu và bảo dưỡng thiết bị máy móc; đào tạo và bồi dưỡng tay nghề. + Phó tổng giám đốc tài chính: chịu trách nhiệm về hoạt động tài chính của Công ty, kiểm tra và giám sát phòng tài vụ. + Phó tổng giám đốc kinh doanh: chịu trách nhiệm quản lý nguồn nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty luôn đúng tiến độ và đạt các yêu cầu đặt ra. - Các phòng ban trực thuộc quản lý bao gồm: + Phòng kỹ thuật: chịu trách nhiệm về kỹ thuật của quy trình công nghệ; tính toán đề ra các định mức và tỷ lệ tiêu hao nguyên vật liệu; nghiên cứu lập kế hoạch sản xuất; kiểm tra chất lượng sản phẩm, chế tạo sản phẩm mới. + Phòng KCS: chịu trách nhiệm kiểm tra quá trình chế biến đưa nguyên vật liệu vào sản xuất, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. + Các xí nghiệp tại Hà Nội và ngoại tỉnh: có nhiệm vụ sản xuất ra các mặt hàng nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chung của toàn Công ty. + Phòng tài vụ: đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh; tổ chức công tác hạch toán kế toán và theo dõi mọi hoạt động của Công ty dưới hình thái giá trị để phản ánh cụ thể chi phí đầu vào, kết quả đầu ra; đánh giá kết quả lao động của cán bộ công nhân viên, phân tích kết quả kinh doanh của từng tháng, quý, năm, phân phối nguồn thu nhập đồng thời cung cấp thông tin cho Tổng giám đốc nhằm phục vụ quản lý điều hành sản xuất kinh doanh. + Phòng kinh doanh: có nhiệm vụ cung ứng vật tư, nghiên cứu thị trường đầu ra, đề ra các biện pháp tiêu thụ sản phẩm hợp lý, tổ chức marketing từ quá trình nghiên cứu, thăm dò, mở rộng thị trường, đến lập ra các chiến lược tiếp thị, quảng cáo và kế hoạch cho những năm sau. + Văn phòng: chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động của phòng hành chính quản trị và phòng lao động tiền lương. Hàng tháng phải có báo cáo về hoạt động của hai phòng này. + Phòng hành chính quản trị: phụ trách các vấn đề về bảo hiểm, an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phục vụ tiếp khách, nhà ăn, y tế, bảo vệ. + Phòng lao động tiền lương: có nhiệm vụ tính lương, thưởng cho cán bộ. Phần II Mô tả và đánh giá tổng hợp môi trường kinh doanh của doanh nghiệp I. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô 1. Người cung ứng nguyên vật liệu Hàng năm, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh một khối lượng lớn bánh kẹo, do vậy có nhu cầu tiêu dùng cao về đường, sữa, bột gạo, bột mỳ, tinh dầu, gluco, nha … Trong khi đó, thị trường trong nước mới chỉ cung cáp được một số nguyên liệu như đường, bột gạo, nha … từ các nhà máy đường Lam Sơn, Quảng Ngãi, Công ty Cái Lân … còn phần lớn các loại nguyên vật liệu khác phải nhập ngoại và phải chịu sự biến động giá cả trên thị trường thế giới. Tỷ giá hối đoái thường xuyên thay đổi đã gây nhiều khó khăn trong việc cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất, làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Để khắc phục tình trạng này, Công ty đã chủ động kỹ kết hợp đồng cung ứng dài hạn với một số Công ty, nhà máy chuyên sản xuất và kinh doanh các loại nguyên vật liệu nhằm giảm bớt chi phí và bảo quản đẩy mạnh quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 2. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty bao gồm thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. 2.1. Thị trường trong nước. Thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước của Công ty bánh kẹo Hải Hà có thể chia thành ba khu vực thị trường chính là thị trường miền Bắc, thị trường miền Trung và thị trường miền Nam. trong đó thị trường miền Bắc là thị trường chủ yếu của Công ty, nhu cầu tiêu dùng tập trung cao vào mùa lạnh và các dịp lễ tết, sinh nhật, cưới hỏi … còn về mùa nóng thì người ta thường ít tiêu dùng đồ ngọt hơn. Thị trường miền Trung cũng tiêu thụ được một phần, do thu nhập của người dân thấp hơn hẳn so với hai khu vực thị trường Bắc - Nam nên có nhu cầu tiêu dùng bánh kẹo ít hơn. Chủ yếu họ tiêu dùng những loại bánh kẹo chất lượng vừa phải, giá thành rẻ và họ ít quan tâm đến hình thức mẫu mã sản phẩm. Đối với thị trường này, sản phẩm được tiêu dùng nhiều nhất là kẹo sữa mềm, kẹo hoa quả, kẹo cốm, kẹo bắp, bánh cân … Riêng ở thị trường miền Nam dân cư rất đông nhưng lượng tiêu thụ lại ít hơn so với miền Bắc và miền Trung, chủ yếu chỉ tiêu thụ được ở ngay tại thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác biệt về khả năng tiêu thụ ở các khu vực thị trường trên là do các yếu tố cạnh tranh, sự xa cách về mặt địa lý và quan trọng hơn cả là do đặc điểm, thị hiếu, tâm lý, thói quen tiêu dùng của khách hàng ở mỗi vùng lại khác nhau. 2.2. Thị trường nước ngoài Trước đây Công ty có một thị trường tiêu thụ tương đối lớn là Liên Xô cũ và các Đông Âu. Tuy nhiên từ khi hệ thống các nước XHCN tan rã, thị trường này của Công ty coi như đã bị mất. Hiện nay, Công ty chỉ mới bắt đầu thiết lập được với một số thị trường mới như: Mông Cổ, Trung Quốc … 3. Các đối thủ cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Hà. 3.1. Đối thủ cạnh tranh trong nước ở thị trường miền Bắc mà cụ thể là tại Hà Nội, Hải Hà có một đối thủ cạnh tranh tương đối lớn là Công ty bánh kẹo Hải Châu, đây là một Công ty sản xuất sản phẩm tương tự như Hải Hà nhưng giá cả thấp hơn, do vậy đã gây không ít khó khăn cho Hải Hà. Ngoài ra, cũng ngay trên thị trường Hà Nội, Hải Hà cũng phải chịu sự cạnh tranh mãnh mẽ của nhiều Công ty khác như: sản phẩm bánh quế, kẹo cốm của Tràng An có chất lượng cao, thơm ngon, giá cả lại tương đối và được người tiêu dùng đánh giá cao; bánh kẹo của Công ty sữa Vinamilk như bánh Petitbeur chất lượng ngon như Hải Hà; sản phẩm bánh kẹo của nhà máy đường 19/5; Thiên Hương, Hữu Nghị … Đối với khu vực thị trường miền Trung và miền Nam thì các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Hải Hà là Công ty đường Quảng Ngãi, Lam Sơn, Biên Hoà. Họ có một ưu thế hơn hẳn so với Hải Hà là có khả năng tự sản xuất ra đường - nguyên liệu chính để sản xuất bánh kẹo, nên giá đầu vào thấp hơn. Mặt khác, họ không phải chịu thuế đối với sản phẩm đường nên giá thành sản phẩm rẻ hơn. Ngoài ra, Hải Hà còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Công ty liên doanh Perfetti mới xuất hiện gần đây với các sản phẩm như kẹo cao su Bigbable, Korea Pusse, kẹo sữa Alpenliebe Original và Công ty Kinh Đô với các loại bánh kem, gatô, bimbim, có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng nên chiếm được một thị phần đáng kể trên thị trường. 3.2. Đối thủ cạnh tranh nước ngoài Hiện nay, lượng bánh kẹo nhập ngoại còn tràn lan ở một số thị trường, đặc biệt tập trung ở các thị trường sát biên giới. Đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Hải Hà vẫn là kẹo Thái Lan và bánh Trung Quốc. Tuy nhiên, gần đây uy tín của bánh kẹo ngoại đang bị giảm sút, nhất là bánh Trung Quốc. Tuy hình thức, mẫu mã đẹp, giá lại rẻ nhưng chất lượng kém (dễ bị ẩm, mốc …). Chính vì vậy mà Hải Hà sẽ dễ cạnh tranh được với bánh kẹo ngoại trên cả hai mặt hình thức và mẫu mã. II. Môi trường vĩ mô: Đối với những sản phẩm bánh kẹo của Công ty bánh kẹo Hải Hà luôn được coi là những sản phẩm không quá xa lạ và đòi hỏi quá cao năng lực mua sắm của người dân Việt Nam chúng ta. Chính vì vậy mà sản phẩm bánh kẹo của Công ty luôn được ưa chuộng và tiêu thụ nhanh chóng. Trong 10 năm trở lại đây thu nhập của nhiều người có chiều hướng tăng lên, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống điều đó cũng là những yếu tố giúp cho việc tiêu thụ bánh kẹo phục vụ do nhu cầu sinh hoạt của người tiêu dùng ngày một nhiều hơn. Ngoài ra, sự thay đổi cơ cấu tuổi tác của dân cư, số lượng những người thuộc các nhóm tuổi khác nhau. Tỷ lệ người cao tuổi tăng vì vậy tỷ lệ sinh đẻ giảm xuống và tuổi thọ trung bình thì lại tăng lên. Hiện nay, tỷ lệ dân cư thay đổi nơi cư trú ngày càng tăng, hướng đi chuyển chủ yếu của họ là đến các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng … Và đa phần họ đều là nông dân không có việc làm ở các vùng nông thôn. Điều này làm cho nhà tiếp thị cần chú ý đến các dịch chuyển như vậy. Vì chúng báo hiệu cho thấy sự khác biệt về cung cách chi tiền trong công chúng. Có một sự thực về môi trường học vấn nữa là người dân Việt Nam chúng ta có trình hộ học vấn ngày càng cao và phần lớn đã làm những công việc gián tiếp (tức là không phải lao động chân tay nhiều như trước). Việc thay đổi như vậy dẫn đến người mua hàng ngày càng kỹ tính (thận trọng) hơn và đòi hỏi chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Phần III Mô tả và đánh giá tổng hợp năng lực và các điều kiện kinh doanh ở bên trong doanh nghiệp. I. Nguồn vốn kinh doanh. Vốn là một trong nhũng yếu tố đàu vào không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty và là công cụ cần thiết để sản xuất kinh doanh và tái mở rộng sản xuất. Trên thực tế, đã có rất nhiều doanh nghiệp trong tổng số gần 6000 doanh nghiệp Nhà nước đã phải đóng cửa vì thiếu vốn. Xuất phát từ đặc tính của bánh kẹo là kinh doanh không đòi hỏi vốn đầu từ lớn, khả năng thu hồi vốn nhanh, kết hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong nhiều năm qua luôn đạt hiệu quả, Công ty lại có khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau nên có thể khẳng định Hải Hà là một Công ty có nhiều tiềm lực mạnh về vốn. Điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1: Cơ cấu vốn của Công ty Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 I. Theo cơ cấu 1. Vốn lưu động 36,456 38,930 41,965 43,567 2. Vốn cố định 69,239 71,820 76,800 79,896 Tổng vốn 105,695 110,75 118,765 123,463 II. Theo nguồn 1. Vốn chủ sở hữu 54,961 56,480 58,710 59,680 2. Vay vốn ngân hàng 33,863 35,948 36,570 37,843 3. Vay từ các nguồn khác 16,871 18,322 23,485 97,543 Tổng vốn 105,695 110,75 118,765 123,463 (Số liệu lấy tại phòng Tài vụ tháng 1/2002) Xét theo cơ cấu có thể nhận thấy rằng nguồn vốn của Công ty đã tăng lên qua các năm. Vốn cố định và vốn lưu động tăng lên đáng kể, nhất là vốn cố định. Điều đó chứng tỏ rằng khả năng sản xuất và kinh doanh của Công ty là rất lớn. Lượng vốn lưu động nhiều, Công ty càng có khả năng và điều kiện đầu tư nguyên vật liệu cho sản xuất, thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá … Xét theo nguồn vốn ta thấy, vốn chủ sở hữu của Công ty chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn, vì vậy Công ty luôn giữ thế chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong khi đó các nguồn vốn khác của Công ty như vay ngân hàng, vay từ cán bộ công nhân viên trong Công ty… lại tăng lên rõ rệt. Điều đó cho thấy khả năng huy động vốn từ các nguồn của Công ty là rất lớn. Công ty cần có các biện pháp tích cực hơn nữa để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm hoàn thành tốt mọi nghĩa vụ Nhà nước giao. II. Nguồn lao động của Công ty Trong quá trình phát triển, đặc biệt là sau quyết định 379 của Bộ công nghiệp nhẹ, Công ty hết sức chú trọng tới lực lượng lao động để phù hợp với tình hình sản xuất, với trình độ và kỹ thuật máy móc thiết bị tiên tiến. Lực lượng lao động của Công ty không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. - Về số lượng: Số lao động của Công ty liên tục phát triển để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất. Từ một xí nghiệp chỉ có gần 1000 công nhân, tính đến nay con số này đã lên đến 1962 người. Trong đó, do đặc điểm của sản xuất là lao động nhẹ nhàng đòi hỏi sự khéo léo của người lao động, nên lao động nữ chiếm 80% trong tổng số lao động của toàn Công ty và được tập trung chủ yếu trong các khâu bao gòi, đóng hộp. Công ty đã có những chính sách về lao động tiền lương và chế độ khen thưởng hợp lý, nên đã khuyến khích được công nhân làm việc hăng hái, nhiệt tình vì mục tiêu chung của toàn Công ty. - Về chất lượng lao động: Tất cả các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đều có trình độ, chuyên môn và tay nghề cao. Bậc thợ trung bình là 4/7. Bảng 2: Cơ cấu lao động theo trình độ văn hoá Chỉ tiêu Đại học Cao đẳng Trung cấp CN kỹ thuật 1. Cán bộ kỹ thuật 63 37 69 2. Cán bộ quản lý 129 15 138 3. Công nhân bậc 6-7 208 4. Công nhân bậc 4-5 443 5. Công nhân bậc 3 (gói kẹo) 757 6. Công nhân bậc <3 (gói kẹo) 103 Tổng số 192 52 207 1511 (Số liệu lấy tại văn phòng 1/2002) Hiện nay Công ty đã có 195 người có trình độ đại học, 54 người có trình độ cao đẳng và 207 người đạt trình độ trung cấp. Nếu đem so sánh với các Công ty sản xuất nói chung và Công ty Bánh kẹo nói riêng thì Bánh kẹo Hải Hà có trình độ đại học cũng như trình độ chuyên môn vào loại khá nhất, điều này đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty. Với lực lượng cán bộ công nhân viên hùng hậu cả về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như trình độ khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để họ có thể đáp ứng được với sự phát triển chung của Công ty trong tình hình mới. III. Nguồn lực về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ. - Về khoa học kỹ thuật: Công ty chỉ đạo thực hiện chương trình nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ trên các mặt: tiếp nhận, phân tích thông tin khoa học kỹ thuật của thế giới và trong nước để ứng dụng vào sản xuất có hiệu quả. + Nghiên cứu và ban hành đưa vào sản xuất các sản phẩm mới đồng bộ cả về công nghệ, định mức tiêu chuẩn và quy trình quy phạm. + Công ty đã có nhiều công trình nghiên cứu sử dụng những nguyên liệu, vật tư kỹ thuật, phụ tùng hoá chất trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu. + Tiến hành thực hiện các định mức kinh tế, đảm bảo chiến lược sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Về máy móc thiết bị: + Xí nghiệp kẹo gồm ba phân xưởng có công suất 6200 tấn/năm với trang thiết bị gồm: hai dây truyền sản xuất kẹo cứng, hai dây chuyền sản xuất kẹo mềm các loại và một dây chuyền sản xuất kẹo gôm. Xí nghiệp còn được trang bị một máy gói kẹo cứng và hai máy gói kẹo mềm của Balan. + Xí nghiệp bánh có ba dây chuyền sản xuất gồm: một dây chuyền sản xuất bánh biscuis, một dây chuyền sản xuất bánh kem xốp, và một dây chuyền làm bột gạo. Trình độ trang thiết bị của Hải Hà tuy được gọi là tiên tiến so với trong nước, nhưng so với các nước trong khu vực hoặc trên thế giới thì vẫn còn lạc hậu. Hầu hết các máy móc thiết bị của Công ty đều được nhập từ các nước Đông âu trong những năm trước đây. Hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, đòi hỏi sản phẩm sản xuất ra phải được nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó trong vòng ba năm gần đây, Công ty liên tục đầu tư thêm một số trang thiết bị mới. Năm 1998, đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất kẹo Jelly của Indonesia. Năm 1999, đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất kẹo Caramel của Đan Mạch và một dây chuyền máy đóng gói bánh của Nhật. Năm 2000 đầu tư thêm dây chuyền bánh kem xốp của Italia. IV. Đặc điểm về sản phẩm và quá trình tổ chức sản xuất của Công ty Bánh kẹo là sản phẩm chủ yếu của Công ty. Thành phần chủ yếu của chúng gồm: đường, nha, bột mì, hương liệu, các chất phụ gia … Mỗi loại sản phẩm có thành phần tỷ lệ và hương liệu khác nhau. Bánh kẹo là những sản phẩm thuộc đồ ăn ngọt phục vụ cho các dịp lễ tết, do vậy quá trình sản xuất của Công ty mang tính thời vụ. Trong khi đóm chúng lại được chế biến từ các nguyên liệu hữu cơ dễ bị vi sinh phá huỷ như đường, bơ, sữa … nên thời gian bảo quản ngắn, thường là 90 ngày, riêng kẹo cà phê là 180 ngày, tỷ lệ hao hụt tương đối, yêu cầu vệ sinh cao. Khác với sản phẩm thông thường, quy trình để hoàn thành sản phẩm bánh kẹo ngắn, chỉ trong khoảng 3 - 4 giờ nên không có sản phẩm dở dang. Công nghệ để chế tạo sản phẩm bao gồm các dây chuyền sản xuất: lò nấu, máy can, cắt, gói … Nhờ những đặc điểm đó của sản phẩm bánh kẹo nên việc tiến hành cải tiến mẫu mã đa dạng hoá và nâng cao chất lượng được thực hiện dễ dàng hơn, nhưng điều quan trọng là phải đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Phần IV Mô tả và đánh giá tổng hợp về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian qua. 1. Phân tích tình hình tiêu thụ hàng hoá theo doanh thu và kết cấu mặt hàng. Công ty bánh kẹo Hải Hà là một Công ty có bề dày lịch sử và có vị trí khá vững chắc trên thị trường sản phẩm bánh kẹo. Trong những năm gần đây, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, Công ty liên tục đầu tư trang thiết bị mới, tổ chức lại cơ cấu lao động, tiến hành chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm. Bên cạnh các sản phẩm truyền thống như kẹo cứng cà phê, cứng hoa quả, kẹo gôm, bánh bích quy … Công ty đã cho ra đời hơn 100 sản phẩm bánh kẹo các loại. Để có thể phản ánh rõ tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty, ta có thể đánh giá qua các nhóm mặt hàng được thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 3: Tình hình tiêu thụ hàng hoá theo doanh thu và kết cấu mặt hàng. 2. Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường của Công ty Trong những năm gần đây đời sống của con người được nâng cao thì nhu cầu tiêu dùng bán kẹo ngày càng tăng. Nắm bắt được xu hướng này Công ty đã có những chính sách hợp lý trong việc thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của mình trên toàn quốc. Ta có thể xem xét tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty qua một số thị trường sau: Phần V Mô tả và đánh giá tổng hợp về tình hình hoạt động marketing của doanh nghiệp thời gian qua. Vì quyền lợi và nghĩa vụ chung, mục tiêu tổng quát của Công ty trong những năm sắp tới là: "Đến năm 2005, Công ty bánh kẹo Hải Hà phải thực sự trở thành một Công ty bánh kẹo lớn nhất Việt Nam, với trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến và có đủ khả năng canh tranh với nền công nghệ sản xuất bánh kẹo của cả nước và trên thế giới." Đó là mục tiêu to lớn đòi hỏi Công ty phải nỗ lực phấn đấu, phải có những giải pháp, chính sách tạo ra sự nhịp nhàng đồng bộ từ đầu vào đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, để đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng Công ty đã vạch ra những định hướng trước mắt và lâu dài trong những năm tới như: 1. Định hướng trước mắt: + Nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị đã đầu tư. + Thường xuyên thay đổi mặt hàng, cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất + Tổ chức quản lý nâng cao năng suất lao động, phấn đấu vào năm 2005 năng suất đạt 15000 tấn/năm, hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường + Tăng cường quảng cáo sản phẩm, gây tiếng tăm nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị phần của Công ty + Nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên toàn Công ty thông qua các hình thức bồi dưỡng và đào tạo lại. Hướng tới mục tiêu đưa thu nhập bình quân của người lao động lên 130000 đồng/người + Chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường, đảm bảo ổn định thị trường cũ và mở rộng thị trường vào các tỉnh miền Trung và miền Nam. 2. Định hướng lâu dài + Nghiên cứu sử dụng nguyên phụ liệu trong nước thay thế hàng nhập khẩu nhằm giảm bớt chi phí đầu vào và hạn chế được những ảnh hưởng do sự biến động của giá ngoại tệ. + Củng cố phát triển thị trường trong nước, tăng cường mở rộng công tác xuất khẩu, liên doanh liên kết với nước ngoài. + Nghiên cứu mở rộng phạm vi khoán cho các xí nghiệp thành viên từ khâu sản xuất liên doanh đến tiêu thụ sao cho sâu sắc, chặt chẽ, hợp lý. + Đầu tư lại toàn bộ dây chuyền sản xuất đã nhập khẩu trước năm 1995. Đưa máy móc vào thay thế hoàn toàn sản xuất thủ công. + Hoà nhập được vào thị trường bánh kẹo của các nước trong khu vực và trên thế giới. I. Những vấn đề về chiến lược 1. Nâng cao chất lượng sản phẩm Sản phẩm của Công ty chủ yếu là hai loại bánh và kẹo do đó việc đầu tư phải tăng cường theo hai hướng: * Đối với sản phẩm bánh: Thời gian qua, Công ty chú trọng đầu tư mạnh vào sản phẩm bánh với hai dây chuyền công nghệ rất hiện đại (gần 30 tỷ đồng) của ý và Đan Mạch. Vốn đầu tư lớn nhưng chưa đồng bộ nên khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của Vinaco, Kinh Đô, Biên Hoà chưa được cao. Nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo thế cạnh tranh tốt trên thị trường là việc làm cần thiết, đòi hỏi Công ty giải quyết các vấn đề sau: + Năng động trên thị trường tìm nguyên liệu và nhập khẩu nguyên liệu có chất lượng tốt, thời gian sử dụng đảm bảo. + Đầu tư nâng cao chất lượng tay nghề đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật về cách pha chế, hàm lượng vi chất trong từng loại bánh để đảm bảo độ giòn, xốp, mặn cho phù hợp với sở thích của nhiều người tiêu dùng. + Trong mọi công đoạn cần phải có người theo dõi, giám sát, kiểm tra thường xuyên các quy trình công nghệ cho đúng trình tự, tiến độ. Nếu sai sót phải xử lý ngay. + Cần triệt để sử dụng các thiết bị chuyên dùng như máy phun đường, máy phun dầu, rót mứt, máy tráng bọc sôcôla … để tạo ra những sản phẩm độc đáo của riêng mình như bánh bích quy bơ, quy mặn, bánh phun sôcôla theo hình xoắn ốc … để tạo sự hấp dẫn với khách hàng. + Bao bì trang nhã, lịch sự đặc biệt nên đóng thành hộp cứng, hoặc hộp sắt để tiện lợi cho việc biếu tặng trong các dịp lễ tết. * Đối với sản phẩm kẹo: Kẹo là sản phẩm truyền thống của Công ty có uy tín lâu năm trên thị trường. Do vậy Công ty cần giữ vững và phát triển mặt hàng này. + Đối với những sản phẩm kẹo có khả năng tiêu thụ tốt, mức lãi suất cao nhưng khả năng cung ứng bị hạn chế thì cần phải đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại để hàng hoá ngày càng hoàn thiện hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như nâng cao công suất để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. + Đối với nhũng loại kẹo có chất lượng thấp hơn, xu hướng tiêu dùng giảm cần phải nghiên cứu kỹ giữa việc nên loại bỏ hay đầu tư nâng cấp cải tiến lại sản phẩm. + Thường xuyên nâng cao chất lượng sản phẩm: Thay đổi công nghệ, công thức chế phối hương liệu, nguyên liệu, nhãn hiệu, bao gói … để tạo ra những sản phẩm mới, độc đáo thu hút khách hàng. 2. Xây dựng chiến lược giá cả hợp lý Hiện nay, giá cả là một trong ba tiêu thức cạnh tranh chủ yếu giữa các hãng trong ngành (chất lượng, giá cả, dịch vụ) và có vai trò quan trong ảnh hưởng tới cung và cầu sản phẩm. Đối với Hải Hà lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường chiếm tỷ lệ cao, do đó chiến lược giá cả của Công ty ít nhiều ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Trong tình hình hiện nay, đói thủ của Hải Hà có rất nhiều đòi hỏi Công ty phải thận trọng, cân nhắc trong việc định giá. Để xác lập một chính sách giá cả thì bên cạnh việc căn cứ vào chi phí sản xuất và hàng hoá tồn kho kỳ trước thì doanh nghiệp phải căn cứ vào các yếu tố có ảnh hưởng tới giá cả thị trường như: giá của sản phẩm thay thế, tình hình cung cầu trên thị trường, các mục tiêu tiêu thụ mà doanh nghiệp đặt ra … Do vậy, doanh nghiệp phải có một chính sách giá cả linh hoạt phù hợp theo những thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng cũng như các thay đổi khác có ảnh hưởng đến thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, Công ty bánh kẹo Hải Hà đã tùng bước áp dụng chính sách giá cả linh hoạt trong khâu tiêu thụ. Cụ thể: vào dịp lễ tết Công ty định giá cao hơn một chút nahừm thu hồi vốn nhanh và bù đắp được mức giá mà Công ty đem lại hiệu quả tối ưu vì giá cả lên xuống thất thường sẽ gây xáo động trong tâm lý người tiêu dùng. Không phải người tiêu dùng nào cũng hưởng ứng việc thay đổi giá. Do vậy Công ty cần phải: + Định ra mức giá ổn định, chỉ giao động trong giới hạn nhỏ + Nếu sản phẩm bị ứ đọng muốn tăng nhanh lượng hàng hoá tiêu thì Công ty nên sử dụng chính sách khuyến mãi hoặc thay đổi một chút về hình thức mẫu mã, bao bì … + Để ổn định giá cả Công ty nên tăng mức sản xuất và có kế hoạch dự trữ để đáp ứng tình trạng khan hiếm hàng khi có nhu cầu tăng đột biến, tránh tình trạng tư thương đầu cơ tích trữ hàng hoá chênh lệch giá. + Công ty nên có chính sách ưu đãi hơn nữa về giá cả đối với các khách hàng truyền thống. Những khách hàng mua với khối lượng lớn thì bên cạnh việc chiết khấu Công ty nên có chính sách hỗ trợ vận chuyển tới nơi yêu cầu. Ngoài ra, Công ty nên tiết kiệm các tiêu hao nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chất lượng của sản phẩm ngày càng được nâng cao, không những thế giá cả của sản phẩm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu xu hướng và hành vi người tiêu dùng phía Bắc về sản phẩm Bánh kẹo của công ty Bánh kẹo Hải Hà.doc
Tài liệu liên quan