MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
PHẦN NỘI DUNG 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CTCK 4
1.1 Khái niệm 4
1.2 Chức năng nhiệm vụ của CTCK 4
1.2.1 Chức năng môi giới chứng khoán 4
1.2.2 Chức năng tự doanh chứng khoán 5
1.2.3 Chức năng bảo lãnh phát hành chứng khoán 6
1.2.4 Chức năng tư vấn đầu tư 7
1.2.5 Chức năng quản lý danh mục đầu tư 8
Chương 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CTCK 9
2.1 Hoạt động môi giới 9
2.2 Hoạt động tự doanh 10
2.3 Hoạt động bảo lãnh phát hành và hoạt động tư vấn đầu tư CK 11
2.4 Các hoạt động khác 13
2.4.1 Lưu ký chứng khoán 13
2.4.2 Cầm cố chứng khoán 15
2.4.3 Repo chứng khoán 16
Chương 3: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CTCK NĂM 2009, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂM 2010 18
3.1 Tình hình hoạt động năm 2009 18
3.2 Mục tiêu, giải pháp phát triển hoạt động của các CTCK năm 2010 20
PHẦN KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
MỤC LỤC 24
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4125 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiết để làm tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường.
Chức năng bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Tổ chức bảo lãnh chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa hồng.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành cần phải có được sự bảo lãnh của một công ty nhỏ, và số lượng phát hành không lớn, thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn, và số lượng chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán cho người đầu tư và số tiền tổ chức phát hành nhận được.
Bảo lãnh phát hành gồm có các phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
Chức năng tư vấn đầu tư
Khái niệm
Tư vấn đầu tư chứng khoán là đưa ra lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng.
Nguyên tắc của hoạt động tư vấn
- Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thề làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu người đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ tìm kiếm các nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. Do vậy, khi hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau:
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó.
+ Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lôgíc, khoa học.
Chức năng quản lý danh mục đầu tư
Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của CTCK nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận.
Chương 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
Hoạt động môi giới
Mạng lưới, quy mô hoạt động của CTCK ngày càng được mở rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản giao dịch tại các CTCK cũng tăng mạnh. Năm 2009 số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 800.000 tài khoản. Tăng 1,5 lần so với năm 2008. Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CTCK đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CTCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CTCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CTCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008. Ta có 10 công ty chứng khoán lớn nhất đã chiếm tới gần 50% thị phần môi giới cổ phiếu trong nước; trong đó dẫn đầu là SSI với 8,53%, thứ hai là VCBS với 6,11%. Đối với mảng môi giới cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, 10 công ty lớn nhất nắm trên 87% thị phần; trong đó SSI đứng đầu với 36,91% thị phần, gấp đôi thị phần của thành viên đứng thứ hai là BVSC với 18,64% thị phần. Trong mảng môi giới chứng chỉ quỹ, SSI tiếp tục đứng đầu khi nắm 10,42% thị phần môi giới trong nước và 48,03% thị phần môi giới nước ngoài. Mảng môi giới trái phiếu, VCBS đứng đầu khi nắm 27,92% thị phần môi giới trong nước và 65,78% thị phần môi giới nước ngoài…
Top 10 công ty chứng khoán môi giới cổ phiếu lớn nhất trên HNX qúy III/2009:
STT
Tên CTCK
Thị phần môi giới cổ phiếu (%)
1
Thăng Long
8,13%
2
Sacombank
4,76%
3
FPT
4,41%
4
Sài Gòn
4,37%
5
ACBS
3,80%
6
HSC
3,78%
7
Quốc Tế Hoàng Gia
3,56%
8
VNDirect
3,15%
9
An Bình
3,09%
10
Ngoại Thương
3,08%
Top 10 công ty chứng khoán môi giới trái phiếu lớn nhất trên HNX qúy III/2009:
STT
Tên CTCK
Thị phần môi giới trái phiếu (%)
1
Ngoại Thương
39,96%
2
Nông Nghiệp
18,85%
3
Sacombank
14,52%
4
Bảo Việt
5,17%
5
HSC
4,63%
6
ACBS
3,16%
7
Đầu Tư
2,88%
8
Đại Dương
2,50%
9
Habubank
2,34%
10
Công Thương
1,76%
Hoạt động tự doanh
Hoạt động tự doanh là hoạt động của công ty chứng khoán (CTCK) thực hiện việc mua và bán chứng khoán bằng nguồn vốn của công ty.
Thời điểm hiện nay các CTCK hoạt động tự doanh vẫn chưa thực sự nổi bật, các CTCK mới chỉ tập trung vào hoạt động môi giới. Điều này có thể được nhìn nhận dưới rất nhiều lý do khác nhau như: tính chất phức tạp của hoạt động tự doanh hay các CTCK chỉ muốn tập trung hoàn thiện nghiệp vụ môi giới trước để từ đó rút kinh nghiệm triển khai các hoạt động có liên quan trong tương lai.
Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực:
Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty mình. Tuy nhiên, hiện nay do số lượng các chứng khoán niêm yết còn ít nên nghiệp vụ này hầu như chưa được triển khai.
Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức như mua chứng khoán không niêm yết trên OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định.
Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hiện nay có nhiều công ty đang thực hiện nghiệp vụ tự doanh rất chuyên nghiệp. Kết quả thu được cũng khá khả quan. Công ty BVS, doanh thu môi giới tăng mạnh của công ty chứng khoán BVS nhờ nguồn thu lớn từ phí giao dịch của khách hàng lên tới 24 tỷ đồng, tăng 300% so với quý I. Đối với nghiệp vụ tự doanh, quý II cũng đạt 36 tỷ đồng doanh thu, tăng 200% so với quý I. Chi phí trong quý II của BVS chủ yếu ở chỉ tiêu "dự phòng giảm giá chứng khoán tự doanh". Trong quý II, BVS đã hoàn nhập dự phòng giảm giá CK tự doanh được hơn 200 tỷ đồng. Một số mã cổ phiếu trong danh mục tự doanh đã có lãi so với giá vốn. Dưới đây là tổng kết doanh thu của một số CTCK giữa hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh hết quý II.
Cơ cấu doanh thu của một số CTCK
Nguồn BCTC quý II. Đơn vị: tỷ đồng (ĐTCK)
Hoạt động bảo lãnh phát hành và hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Ở Việt Nam, theo qui định tại Thông tư 01/1998/TT-UBCK ngày 13/10/1998 của UBCK Nhà nước hướng dẫn Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng thì bảo lãnh phát hành được thực hiện theo một trong hai phương thức sau:
Mua toàn bộ số lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu được phép phát hành để bán lại. Đây chính là phương thức cam kết chắc chắn vì tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua toàn bộ lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu của đợt phát hành.
Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết. Đây thực chất cũng là một dạng của phương thức cam kết chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua phần chứng khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết.
CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; vốn pháp định để thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán là 100 tỷ đồng, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng. Trước thời điểm bảo lãnh, các CTCK không được vi phạm luật chứng khoán trong 6 tháng liên tục, đồng thời, tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến ngày ký hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Và, CTCK cũng phải có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong 3 tháng liền trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị.
Trong những tháng vừa qua, có một số hợp đồng bảo lãnh phát hành được thực hiện như: Cuối năm 2009, Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên ANZ Việt Nam (ANZ) được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ đại lý phát hành trái phiếu và bảo lãnh phát hành trái phiếu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam với số vốn điều lệ của ngân hàng này là 2.000 tỷ đồng. Ngân hàng Phát triển VN được phép phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh phát hành từ năm 2010, dự kiến khối lượng phát hành trong năm 2010 là 30 nghìn tỷ đồng với thời hạn trái phiếu: kỳ hạn 2 năm là 4.400 tỷ đồng, kỳ hạn 3 năm là 6.000 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm là 8.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm là 5.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm là 6.600 tỷ đồng.
Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu. Theo Ủy ban Chứng khoá Nhà nước (UBCKNN), năm 2009 có gần 80 (trong tổng số 105 công ty) CTCK hoạt động có lãi. Hết năm 2009, tổng vốn điều lệ của các CTCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008. Ngoài hội sở chính, các thành viên đã có 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động trên cả nước. Các CTCK cũng đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Số lượng tài khoản giao dịch tại các thành viên này cũng tăng mạnh với trên 800.000 tài khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008.
Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán cho 2.744 nhân viên. Nhiều CTCK đã tuyển dụng được nhân viên có trình độ, chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, góp phần nâng cao năng lực quản lý trong hoạt động. Các CTCK đã chú trọng đầu tư, hiện đại hóa, hệ thống công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán. Hoạt động giao dịch phục vụ khách hàng diễn ra suôn sẻ và ngày một tốt hơn.
Các hoạt động khác
Lưu ký chứng khoán
Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK). Theo Quyết định này, TTLKCK là đơn vị sự nghiệp có thu, thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)- Bộ Tài chính.
Việc ra đời TTLKCK là đòi hỏi tất yếu của TTCK Việt Nam ở giai đoạn phát triển hiện nay; đó cũng là xu hướng và theo thông lệ trên TTCK quốc tế, nhằm thúc đẩy TTCK phát triển.
Thông thường ở các nước trên thế giới, các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao dịch trên TTCK do một hoặc một số tổ chức độc lập với Sở Giao dịch Chứng khoán đảm nhận. Các tổ chức này được xây dựng theo một trong hai mô hình sau: TTLKCK thực hiện toàn bộ các dịch vụ đó; hoặc TTLKCK và một tổ chức bù trừ cùng cung cấp các dịch vụ đó.
Quy mô TTCK tập trung của Việt Nam hiện nay chưa lớn: Với gần 300 loại chứng khoán được niêm yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội (trong đó có 30 loại cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh, 6 loại cổ phiếu đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội; khoảng 260 trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty; và 1 loại Chứng chỉ Quỹ đầu tư); hơn 24.000 tài khoản giao dịch chứng khoán của các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở tại 13 CTCK. Số chứng khoán này đã và đang được các nhà đầu tư giao dịch mua/ bán trên TTCK. Điều này có nghĩa là nhu cầu đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán là “có thực” trên TTCK hiện nay.
Việc lưu ký chứng khoán hiện nay được thực hiện qua 2 cấp:
Cấp I - Người sở hữu chứng khoán phải lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký (hiện có 13 CTCK, 2 ngân hàng trong nước và 3 ngân hàng nước ngoài là thành viên lưu ký);
Cấp II - Thành viên lưu ký sẽ tái lưu ký chứng khoán đó tại TTGDCK.
Thực tế hiện nay, hoạt động đăng ký, lưu ký và bù trừ, thanh toán chứng khoán (bao gồm cả chứng khoán niêm yết/đăng ký giao dịch và chứng khoán không niêm yết/đăng ký giao dịch trên 2 TTGDCK) được thực hiện thông qua 2 Phòng Đăng ký- Thanh toán bù trừ - Lưu ký chứng khoán của 2 TTGDCK. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Đăng ký - Thanh toán bù trừ- Lưu ký chứng khoán tại TTGDCK là: đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán,thanh toán bù trừ.
Trước đòi hỏi thực tế của TTCK Việt Nam và theo thông lệ quốc tế, việc “gộp” 2 bộ phận đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán tại 2 TTGDCK để hình thành một TTLKCK độc lập với Sở Giao dịch Chứng khoán/TTGDCK là một “thực tiễn khách quan”, làm cho loại hình dịch vụ này trở lên an toàn hơn và chuyên nghiệp hơn.
TTLKCK đi vào hoạt động ngoài việc tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng cho TTCK Việt Nam; cung cấp các dịch vụ đăng ký, lưu ký và thanh toán, bù trừ chứng khoán,còn giúp giảm rủi ro, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả cho nghiệp vụ sau thanh toán, tiêu chuẩn hoá giữa các thành viên tham gia thị trường, góp phần tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình phát triển và hội nhập, cung cấp các dịch vụ liên quan tới giao dịch chứng khoán. Điều này gíp thị trừờng hoạt động có hiệu quả hơn
TTLKCK sẽ được tổ chức theo mô hình là các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao dịch trên TTCK sẽ do một tổ chức độc lập duy nhất thực hiện là TTLKCK, không cần có thêm tổ chức bù trừ chứng khoán cùng đảm nhận
Cầm cố chứng khoán
Các nguyên tắc và phương thức cầm cố CK:
A. Là một nghiệp vụ kinh doanh CK - ít nhất có hai chủ thể tham gia:
a/ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được người đi vay uỷ quyền giao CK cho bên nhận cầm cố;
b/ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được người cho vay uỷ quyền nhận cầm cố CK bên cầm cố.
Việc thực hiện cầm cố CK trên cơ sở hợp đồng pháp lý cầm cố CK của hai chủ thể tham gia, trong đó quy định rõ giá trị CK cầm cố, số tiền vay, lãi suất và thời hạn trả nợ, phương thức xử lý CK cầm cố.
B. TTGDCK sau khi kiểm tra thủ tục, nhất là tính hợp pháp, hợp lý của nó thì trung tâm phải mở tài khoản cầm cố và chuyển CK vào tài khoản cầm cố theo yêu cầu của bên cầm cố.
Trường hợp bên cho vay (hoặc bên vay) không phải là thành viên lưu ký, bên cho vay (hoặc bên vay) phải uỷ quyền việc nhận cầm cố CK (hoặc việc giao CK cầm cố) cho một thành viên lưu ký khác.
C. Tài khoản cầm cố phải tách biệt với tài khoản lưu ký các CK khác của bên cầm cố. Sau khi ghi vào tài khoản cầm cố CK, thì phải đình chỉ việc rút, chuyển khoản hoặc chuyển nhượng các CK trên tài khoản cầm cố trong thời gian cầm cố. TTGDCK gửi thông báo bằng công văn cho bên nhận cầm cố về việc đã thực hiện cầm cố CK.
D. Việc giải toả cầm cố CK được thực hiện theo các nguyên tắc:
Người giải toả cầm cố CK phải là bên nhận cầm cố CK;
Có thể giải toả toàn bộ hoặc một phần CK cầm cố bằng hình thức rút chứng chỉ hay chuyển khoản;
Có văn bản đề nghị giải toả cầm cố CK của bên nhận cầm cố. Trên cơ sở đó, TTGDCK thực hiện huỷ bỏ việc cầm cố CK trong đăng ký người sở hữu CK và thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố việc huỷ bỏ cầm cố CK và giải toả tài khoản cầm cố sang tài khoản khác.
Nếu bên cầm cố CK thực hiện không đúng theo thoả thuận thì CK cầm cố đó được xử lý do các bên thoả thuận hoặc đưa ra bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Repo chứng khoán
Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất thì nghiệp vụ repo giống như một khoản vay có đảm bảo bằng các chứng khoán và các tài sản đảm bảo khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại ( còn gọi là hợp đồng rp) trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng.
Khi hai bên thực hiện kí một hợp đồng repo thì bên A tức bên Nhà buôn sẽ thực hiện bán số chứng khoán tương đương với một khoản tiền vay nào đó tại một tỉ lệ lãi suất chấp nhận được cho cả hai bên cho bên B ( nhà đầu tư) và cam kết sẽ mua lại vào một thời gian nào đó (thông thường dưới 1 năm vì hợp đồng repo là công cụ trên thị trường tiền tệ).
Nói chung thì một giao dịch repo có hai giai đoạn là giai đoạn bán chứng khoán và giai đoạn mua lại chứng khoán.
Tham gia chủ yếu vào giao dịch repo là các nhà đầu tư có tổ chức lớn như ngân hàng, công ty chứng khoán., các quỹ đầu tư..., các nhà buôn, nhà kinh doanh chứng khoán, ngân hàng trung ương, các tổ chức cung cấp dịch vụ riêng cho hoạt động repo. Hợp đồng repo cũng được coi là một công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.
Để hoạt động repo diễn ra suôn sẻ và tránh thiệt hại cho mỗi bên khi giá các chứng khoán repo bị biến động bởi thị trường thì các bên tham gia thường thỏa thuận với nhau một biên độ giao động giá hay một khoản giảm trừ đối với các chứng khoán repo. Vì thế giá của các chứng khoán cơ sở thường thấp hơn so với giá thị trường. Khoản giảm trừ này là tương đối nhỏ đối với các trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ và lớn hơn đối với cổ phiếu.
Nghiệp vụ repo làm tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu vì thế rất quan trọng nếu muốnphát triển thị trường trái phiếu.
Còn ở Việt Nam, nghiệp vụ repo được các CTCK và ngân hàng thực hiện từ năm 2003 đối với các trái phiếu chính phủ, đến nay nghiệp vụ này đã đi tới cổ phiếu với mức độ rủi ro hơn nhiều so với trái phiếu. Đây cũng là nghiệp vụ mang lại doanh thu lớn cho các CTCK.
Chương 3: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CTCK NĂM 2009, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂM 2010
Tình hình hoạt động năm 2009
Năm 2009 là năm nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được khủng hoảng và tiếp tục đà tăng trưởng, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế, TTCK Việt Nam đã có dấu hiệu hồi phục, tạo đà cho các bước tăng trưởng của những năm tiếp theo. Trong năm 2009 hoạt động của các CTCK được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, mạng lưới, quy mô hoạt động của CTCK ngày càng được mở rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản giao dịch tại các CTCK cũng tăng mạnh với tổng số tài khoản trên 800.000 tài khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008.
Thứ hai, Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CTCK đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CTCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CTCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CTCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008.
Thứ ba, Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán cho 2.744 nhân viên. Nhiều CTCK đã tuyển dụng được nhân viên có trình độ, chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, góp phần nâng cao năng lực quản lý trong hoạt động. Các CTCK đã chú trọng đầu tư, hiện đại hóa, hệ thống công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán. Hoạt động giao dịch phục vụ khách hàng diễn ra suôn sẻ và ngày một tốt hơn.
Thứ tư, sự ra đời của hàng loạt các CTCK đã góp phần đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cho số lượng đông đảo nhà đầu tư đang ngày một gia tăng, đồng thời tạo ra áp lực cạnh tranh buộc các CTCK phải tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và đảm bảo lợi ích cho khách hàng.
Công tác quản lý, giám sát hoạt động các CTCK của UBCKNN
Năm 2009 là năm hết sức khó khăn đối với hoạt động của TTCK. Tuy nhiên, hoạt động của các CTCK đã diễn ra khá suôn sẻ, không có trường hợp nào bị giải thể, phá sản. Đó là một thành công hết sức lớn trong đó sự nỗ lực của bản thân các CTCK, sự đóng góp của các thành viên thị trường và sự chỉ đạo quyết liệt của cơ quan quản lý là UBCKNN (dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài chính) được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, trước tình hình khó khăn của năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, nguy cơ nhiều CTCK thua lỗ lớn, có thể dẫn đến đổ vỡ, phá sản, Bộ Tài chính đã chỉ đạo UBCKNN thực hiện nhiều giải pháp để quản lý chặt hoạt động của CTCK như rà soát, phân loại CTCK để có ứng xử phù hợp, yêu cầu các công ty báo cáo thường xuyên, trực tiếp cùng các công ty để xây dựng phương án chấn chỉnh hoạt động, yêu cầu các công ty tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính hoặc rút bớt nghiệp vụ để đảm bảo tiêu chí hoạt động theo quy định. Đồng thời UBCKNN đã chủ động xây dựng phương án xử lý nếu CTCK phá sản.
Thứ hai, thực thi Luật Chứng khoán, để đảm bảo yêu cầu vốn pháp định theo quy định, UBCKNN đã hướng dẫn những CTCK không đủ vốn nên rút nghiệp vụ hoặc tăng vốn để tăng nghiệp vụ, 35/35 CTCK rút nghiệp vụ cấp phép đảm bảo theo quy định.
Thứ ba, với nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường công tác quản lý, giám sát hoạt động của các CTCK, UBCKNN đã yêu cầu các CTCK chỉ được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đã được UBCKNN cấp phép. Đối với các sản phẩm dịch vụ tài chính khác, yêu cầu CTCK trước khi thực hiện phải báo cáo UBCKNN phương án, quy trình thực hiện, các biện pháp quản trị rủi ro và phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Thứ tư, đối với trường hợp những CTCK hoạt động tổ chức giao dịch chứng khoán OTC, xét hình thức giao dịch có rủi ro của hoạt động này, UBCKNN đã yêu cầu CTCK đóng cửa sàn giao dịch OTC. Việc ban hành các văn b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam.doc