1. PHẦN I: TỔNG QUAN
1.1. GIỚI THIỆU
1.2. MỤC ĐÍCH
1.3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI
1.3.1. Đối tượng
1.3.2. Phạm vi
1.4. BỐ CỤC CỦA BÀI
Nội dung của bài tiểu luận được chia thành ba phần:
Phần 1: Tổng quan
Phần này giới thiệu khái quát mục đích của bài tiểu luận, đối tượng , phạm vi điều tra, nội dung và bố cục của bài tiểu luận.
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Khái quát chung về lạm phát
Chương 2: Tình hình lạm phát 2008
Chương 3: Biện pháp
Phần 3: Kết luận
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14118 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình lạm phát ở nước ta năm 2008 và biện pháp chống lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộc siêu lạm phát điển hình diễn ra tại Đức vào tháng 11/1923 với tỷ lệ 10.000.000 lần do với tháng 11/1922. Sau này,ở các nước khác, siêu lạm phát diễn ra như Bolivia vào 1985 với tỷ lệ 50.000%.
2.2. CHƯƠNG II:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT 2008
2.2.1. NGUYÊN NHÂN
Sau cơn khủng hoảng lạm phát vào những năm 1980 đầu 1990 giá cả Việt Nam đã duy trì ổn định với tỷ lệ lạm phát bình quân chỉ trên 3% trong những năm 1996 – 2003. Tuy nhiên, những năm gần đây, đặc biệt là năm 2008, nước ta đã phải đương đầu với nạn lạm phát. Năm 2008 được coi là có hai cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế. Không nằm ngoài những nguyên chung đã gây ra nạn lạm phát thì năm 2008 còn có cho nó những nguyên nhân riêng. Vậy nguyên nhân gây ra lạm phát 2008 là do đâu?
2.2.1.1. Tác động của thị trường thế giới
Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy giảm mạnh 4.9% năm 2007, dự báo xuống 4% năm 2008. Thương mại quốc tế giảm mạnh so với năm 2006. Nền Kinh tế Mỹ (chiếm ¼ GDP toàn Thế giới) đang suy giảm, chuyển qua suy thoái, ảnh hưởng đến giá cả nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm trên toàn Thế giới tăng đột biến dẫn đến lạm phát xảy ra ở nhiều nước. Thị trường tài chính Thế giới thiệt hại khoảng 3500 tỷ USD, đặc biệt Việt Nam đang được đánh giá là “ngôi sao đang lên”. Sau khi gia nhập WTO thì nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam từ các nhà đầu tư nước ngoài rất lớn đã góp phần làm tăng chi tiêu, xây dựng, chứng khoán, lạm phát. Bởi vì Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu vì vậy khi nền kinh tế gặp trục trặc thì ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế của Việt Nam.
2.1.1.2. Tàn dư của năm 2007
Tại Việt Nam các nguyên nhân phát sinh lạm phát trên đều xuất hiện với những trọng số khác ở mỗi thời kỳ khác nhau. Năm 2007 là năm mà các nhà nước tích tụ bấy lâu nay gặp cơn lốc lạm phát Thế giới. Ở năm 2008, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh. Năm 2007 là 12.63% và ba tháng đầu năm 2008 tăng trên 9%, đặc biệt là cán cân thương mại năm 207 thâm hụt lớn. Cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% ở mức đáng lo ngại. Hệ thống chính trị khủng hoảng do những tác bên trong hoặc bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của nhà nước xói mòn. Từ đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút, họ không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà nhà nước phát hành. Khủng hoảng giá nhiên liệu, giá lương thực, sắt thép… trên Thế giới vừa được hạ nhiệt thì cuộc khủng hoảng địa ốc cho vay dưới chuẩn mực ở nước Mỹ được “ủ bệnh” từ hơn một năm trước bùng phát vào giữa tháng 9 đã lan nhanh sang lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế, lao động, việc làm và lan nhanh sang các khu vực các nước.
2.1.1.4. Lạm phát do chi phí đẩy
Trong năm 2008, giá cả các mặt hàng lương thực thực phẩm và nguyên liệu đầu vào chủ chốt cho nền kinh tế như xăng dầu, sắt thép… giá nhân công tăng mạnh. Nước ta nhập khẩu chiếm 90% GDP tuy là giá xăng dầu tăng cao trong phamj vi toàn cầu nhưng tình hình lạm phát ở các nước khác không trầm trọng như nước ta. Do tăng chi phí sản xuất vào việc sử dụng nguồn lực còn thấp, tiền lương thường là chi phí sản xuất quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không phù hợp với tăng trưởng đã khơi mào cho quá trình lạm phát. Ngoài ra nếu nhìn sâu hơn thì có một nguyên nhân đơn giản mà ai cũng thấy rõ là làm giảm nguồn cung của một số mặt hàng thiết yếu, cụ thể là dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh trong những năm gần đây tái phát 2008, đặc biệt đầu năm 2008 là việc rét đậm rét hại làm chết 8328 con trâu bò ở Tây Bắc Bộ.
2.1.1.5. Lạm phát do cầu kéo
Do tổng cầu vượt trội đã đẩy giá chung lên cao, sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên trong hay bên ngoài, từ những chính sách thu chi ngân sách hay thị trường mở rộng, chính sách tài khóa không hiệu quả là nguyên nhân rất quan trọng của căn bện lạm phát ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách trong nhiều năm trên 6% GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56 nghìn tỷ đồng). Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết nhưng dàu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà. Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền (tống phương tiện thanh toán) tăng nhanh 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng ba năm cung tiền M2 tăng 134.2% trong khi ba năm GDP chỉ tăng 25.09%. Đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai. Thật không may trong thời điểm nhạy cảm này là một động thái có từ trước của chính phủ. Đó là tăng lương cơ bản 20% vào ngày 1/1/2008
2.1.1.6. Lạm phát do xuất nhập khẩu
Năm 2008 Việt Nam hội nhập kinh tế Thế giới có nhiều doanh nghiệp nước ngoài và trong nước mọc lên. Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn so với tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Sản phẩm không tự sản xuất được phải nhập khẩu khi giá nhập khẩu tăng dẫn đến giá bán sản phẩm tăng, đẩy mức giá chung tăng và nước ta đã nhập khẩu cả tỷ lệ lạm phát từ các nước đặc biệt là Trung Quốc.
2.1.1.9. Lạm phát quán tính
Trong đợt sốt giá gạo ảo đã gây ra lạm phát quán tính. Lạm phát trong thời gian gần đây tăng đột biến không chỉ là hệ quả tích kuyx của quá trình tăng trưởng dài hạn mà còn là kết quả của năng lực sản xuất yếu kém do tích tụ của trình độ công nghệ thấp và chậm được cải thiện trong nhiều năm qua
Do siêu lợi nhuận có được từ đầu cơ trên cả hai thị trường chứng khoán và bất động sản đã làm nảy sinh phương thức tiêu dùng mà đặc trưng của nó là mua vét với khối lượng lớn trong thời gian ngắn nhiều loại hàng hóa như vàng, ngoại tệ, đất đai..
2.2.2. Diễn biễn lạm phát 2008
2.2.2.1. Những năm trước lạm phát 2008
Sau cơn khủng hoảng lạm phát vào những năm cuối 1980 đầu 1990, giá cả chung ở Việt Nam đã duy trì ở mức ổn định với những tỷ lệ lạm phát bình quân chỉ trên 3% trong những năm 1996 – 2003. Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta được nhắc đến nhiều từ những năm 1996 – 2003. Có thể thấy liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước và năm 2008 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt trong 4 năm qua: bắt đầu là 9.5% năm 2004; 8.4% năm 2005; 6.6% năm 2006; 12.6% năm 2007 và trong 4 tháng đầu năm 2008 đã tăng 11%. Đây là chỉ số CPI từ năm 2000 đến năm 2007 theo Tổng Cục Thống Kê:
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
8%
4%
3%
9.5%
8.4%
6.6%
12.6%
Tại hội thảo giá cả cuối năm 2007, Giáo sư Kenichi Ohno và nhóm kinh tế vĩ mô tài chính của Việt Nam Daragon Fund Limited (VDF) cho rằng: lạm phát của Việt Nam ở mức thấp hơn hoặc xấp xỉ 10% không phải là thảm họa kinh tế vĩ mô và có thể chấp nhận được nếu nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Hiện nay Việt Nam là một nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong các nước Đông Á. Chỉ số giá khởi đầu năm 2008 với mức tăng “ấn tượng” 2.38% đã báo hiệu một năm đầy sóng gió với lạm phát cao. Không tạo ra bất ngờ do đã có “đà” từ những tháng cuối năm 2007, tuy nhiên sự mở màn của năm 2008 bắt đầu làm dẫy lên nỗi lo lạm phát. Tuy có nguyên nhân của dịch bệnh khiến nguồn cung của thực phẩm suy giảm, có nguyên nhân từ tăng “lực” cầu vào dịp giáp tết Nguyên Đán, nhưng tháng 1/2008 cũng đã chứng kiến mức tăng giá tiêu dùng cao trong nhiều năm trước đó. Nối lo lạm phát thực sự xuất hiện vào ngày 21/2, thời điểm cục thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2008 đạt mức tăng 3.56% so với tháng trước, mặt bằng giá cả so với năm trước tăng 15.7%, mức cao nhất trong hơn 10 năm qua và hiện là tỷ lệ cao nhất tại các nước đang phất triển ở Đông Á. Dân số tăng khoảng 1.2% tức là vấn tăng trên 1 triệu người (đưa dân số năm 2008 lên trên 86.2 triệu người). Mức tiêu dùng trông qua mua bán trên thị trường (thể hiện tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng) năm trước tăng trước tăng 23.3%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá bình quân năm (8.3%) thì vẫn tăng 13.9%. Đây là tốc độ tăng rất cao (cao gấp 1.63 lần tốc độ tăng GDP theo giá so sánh), một phần do mức tiêu dùng tăng cao và tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh.
Ở đỉnh “sóng” CPI thứ nhất, mặt hàng gạo có ảnh hưởng khá lớn. Giá của loại lương thực này tăng liên tục trên thị trường Thế Giới. Chỉ trong một thời gian ngắn giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mạnh mẽ, gây hiện tượng tư thương tranh mua đẩy giá lên cao. Dù xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai Thế giới và lượng tồn kho đủ tiêu dùng trong nước, nhưng nạn đầu cơ tung tin sai lệch đã “thắng” hệ thống phân phối yếu khiến gạo tại thị trường Việt Nam bị “làm giá”. Nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống trong tháng 2 đã tăng 3.2%, riêng lương thực tăng tới 3.7%. Quyền số trên 42% của nhóm này đã tác động mạnh đến tỷ số giá. Nhưng những lo ngại vẫn còn ở phía trước. Tương ứng với ba vòng tác động: trực tiếp, gián tiếp và lan tỏa, CPI đã kéo dài ảnh hưởng lên hai tháng 3 và 4 sau đó, dù có thể hiện sự giảm tốc lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát hiện tại là 22.3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức 2 chữ số (12.63%), ba tháng năm 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9.19%, cao gấp 3 lần cùng kỳ và gần bằng ¾ mức cả năm 2007, đac vượt qua mức đã đề ra cho cả năm 2008, nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56.5% so với 18.2%). Ba tháng này đã hoàn thành một chu kỳ với CPI tháng 3 tăng 2.99%, tháng 4 “khiêm tốn” hơn với mức 2.2%. Với “đợt sóng” kế tiếp, đỉnh sóng cao hơn, nhưng sức lan tỏa lại kém mạnh mẽ. Ở mức tăng cao nhất, tháng 5 đạt đỉnh tăng của năm 2008 và “soán ngôi” của tháng 2 với 3.91%. “Tỷ lệ lạm phát “vọt” lên 2 con số trong 5 tháng đầu đang đe dọa sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định về xã hội và kinh tế vĩ mô đã đặt nền móng bằng tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trên 8% trong 5 năm qua”, thời báo Châu Á ASIAN Time viết ASIAN cũng cảnh báo về “sự bất bình đẳng” gia tăng trong các khu công nghiệp do giá cả leo thang. Theo tờ báo, số lượng các cuộc đình công của người lao động xung quanh vấn đề tiền lương và điều liện làm tại các khu công nghiệp gia tăng trong thời gian gần đây. Tình hình kinh tế xã hội những tháng đầu năm 2008 đã và đang có những diến biến lớn bất lợi. Tăng trưởng kinh tế vẫn cao nhưng không đạt mục tiêu đề ra, tăng trưởng của các công nghiệp - xây dựng thấp. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có biểu hiện xấu. Giá tiêu dùng liên tiếp tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đã là 9.19%, nếu tính cả tháng 4 đã là trên 11%, ảnh hưởng rất bất lợi đến sản xuất kinh doanh, đến đầu tư phát triển và tác động xấu đến đời sống nhân dân. Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường, nhập siêu tăng cao, cán cân thương mại và cán cân thanh toán thiếu vững chắc. Nhóm hàng lương thực đã tăng 15.02%, nhóm hàng thực phẩm tăng 10.06%, nhà ở và xây dựng tăng 11.01%...và chỉ có riêng nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm được 2.91%.
Tình hình giá cả nguyên liệu trên Thế giới đang nóng lên với việc tăng giá xăng dầu tăng với tốc độ chóng mặt, gây ra nhiều khó khăn cho kinh tế Việt Nam. Giá dầu Thế giới đã tăng cao trong năm 2007 và đầu năm 2008 đạt hết kỷ lục này đến kỷ lục khác, kỷ lục mới nhất là 128 USD/thùng vào ngày 16/5/2008 mức mà chưa có dự báo nào trong năm 2007 đưa ra. Nhất là trong tình hình lãng phí nhiên liệu trong sản xuất ở Việt Nam còn rất cao phụ thuộc mạnh vào nhiên liệu có nguồn gốc từ dầu mỏ, chưa có các nguồn nhiên liệu thay thế thì việc tăng giá dầu nhanh sẽ bắt đầu cho cơn bão giá cả, tạo điều kiện cho lạm phát theo quán tính, về lâu dài có thể triệt tiêu khả năng tăng trưởng kinh tế.
Không riêng gì giá dầu, giá sắt thép tăng 21,4% (riêng phôi thép tăng 42.4%) đã làm tăng 259 triệu USD; giá phân bón tăng 71,3% đã làm tăng 88 triệu USD; giá chất dẻo tăng 12.6% đã làm tăng 54 triệu USD; Giá sợi dệt tăng 14.2% đã làm tăng 16 triệu USD; giá lúa mì tăng 55.5% đã làm tăng 12 triệu USD; giá bông tăng 16,4% đã làm tăng 10 triệu USD; giá giấy tăng 5.2% đã làm tăng 6 triệu USD.
……….kẻ bảng…
Chỉ với những mặt hàng trên, do giá tăng đã làm tăng kim ngạch nhập khẩu tăng gần 1 tỷ USD trong 2 tháng, chiếm ¼ tổng kim ngạch nhập khẩu của các mặt hàng này. Trong khi đó nhiều mặt hàng của Việt Nam lại mang tính gia công cao như dệt may, giày dép… có đến 80% nguyên liệu phải nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6.5% và Thái Lan 2.9%. Đầu năm 2008, lạm phát Trung Quốc có nhích lên nhưng chưa đến con số như Việt Nam hơn nữa vẫn còn thấp xa so với tốc độ tăng trưởng hai con số của nền kinh tế.
Diễn biến lạm phát vẫn tiếp tục căng thẳng. Tháng 6 tăng 2.14% và tháng 7 còn 1.13% . Ở chu kỳ tăng giá này , tại nhiều thời điểm, lương thực là nguyên liệu duy nhất đến chỉ số giá. Tính đến tháng 6/2008 giá lương thực đã tăng 57.22% so với tháng 12/2007. Vỡi những “lực đẩy mạnh mẽ” như trên, CPI tháng 6/2008 so với tháng 12/2007 đã tăng 19.01%. Đến hết tháng 6, lạm phát ở Việt Nam là 18.44% so với ngày 31/12/2007 và 24.8 % so với cùng kỳ năm trước – mức cao nhất trong 15 năm kể tằ năm 1993
Diễn biến lạm phát 6 tháng lần lượt là:
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
2.38%
3.56%
2.99%
2.2%
3.91%
2.91%
Tháng 7/2007, quá trình “hãm phanh” giá xăng trong nước đã quá dài và đã đến luc không thể kiềm chế hơn nữa. Tiếp theo diễn biến giá dầu Thế giới đạt mức kỷ lục mọi thời đại ở mức 147 USD vào ngày 1/7, mười ngày sau đó giá xăng A92 đã nhảy vọt với bước tăng 30% lên mức 19 nghìn đồng/lít vào ngày 21/7.
Mức tăng “gây sốc” của nhiên liệu quan trọng này đã kéo theo hàng loạt sản phẩm dịch vụ tăng giá theo, trong đó phải kể đến những đợt tăng giá cước vận tải không “hẹn” ngày giảm giá, hay kể cả những mặt hàng không liên quan nhiều như rau xanh, thực phẩm chưa chế biến. Ngoài những cú “Knock- out” đến từ việc tăng giá của những nhóm hàng hóa chiếm quyền số cao cũng còn những mặt hàng khác đã thể hiện sức “vươn” giá mạnh mẽ không kém. Giá phôi thép Thế giới từ khoảng 600-700 USD/tấn. Trong khoảng thời gian lạm phát kéo dài này ẩy giúa thép trong nước có thời điểm lên tới 19-20 triệu/tấn.
Nhìn lại giai đoạn này, những vòng tác động gián tiếp và tâm lý đã đẩy nhiều loại hàng hóa tăng giúa bất hợp lý. Tại một số thời điểm, trong lúc giá xi măng xuất xưởng của một số nhà cung cấp chỉ có từ 53-55 nghìn/bao. Thì giá bán trên thị trường lên tới 80-90 nghìn/bao. ..
Không chỉ tác động đến giá các loại hàng hóa vật chất, thị trường chứng khoán cũng nhiều lần chứng kiến tác động của chỉ số giá đến sự tăng hay giảm của bảng điện tử. Lượng tiền đổ vào thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản cao. Tăng trưởng kinh tế do yếu tố vốn đầu tư đóng góp chiếm 57.5%, Do yếu tố số lượng lao động tăng đóng góp 20%, do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (gồm hiệu quả đầu tư, năng suất lao động…) chỉ đóng góp 22.5 %.
Những công bố CPI sớm của các thành phố quan trọng như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội có thời điểm cũng áp đặt xu hướng cho thị trường mua bán giấy tờ có giá này. CPI cũng đẩy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại tăng liên tục trong giai đoạn này, có những thời điểm vượt trên 18-19% đối với huy động tiền gửi và 21-24% với tiền cho vay. Bình quân mức CPI thời kỳ này đạt 2.48%/tháng, dù đã được điều chỉnh bởi các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Phính phủ.
Trái với giai đoạn tám tháng đầu năm, khi “gánh nặng” giá cả đè lên vai đa số người dân thì ở bốn tháng còn lại của năm doanh nghiệp lại “chịu trận” giảm phát. Trong khi Thế giới nhìn nhận rõ nét hơn cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì vào tháng 9/2008, Việt Nam “hân hoan” với chiến thắng trước lạm phát. CPI chỉ tăng có 0.18% trong tháng này, khiến những tính toán rằng lạm phát cả năm có thể không chế được 24% bắt đầu trở nên đáng tin tưởng hon. Sau tháng 9 với chỉ số giá tăng nhẹ 0.18%, ba tháng của quý 4/2008, chỉ số giá giảm liên tiếp; tháng 10 giảm 0.19%, tháng 11 giảm 0.76%, tháng 12 giảm 0.68%. Và như vậy năm 2008 khép lại với mức lạm phát là 19.89% - nếu so với tháng 12/2007 và xấp xỉ 23 % nếu so với giá tiêu dùng bình quân của năm 2007.
Trong lịch sử của nước Việt Nam mới chưa có bao giờ trong một năm nước ta phải đối mặt với hai cuộc khủng hoảng như năm 2008.
Việt Nam đã trải qua một năm đầy sóng gió với lạm phát cao đột biến trong vòng 15 năm trở lại đây. Nhưng với những nỗ lực giải pháp của Chính phủ đề ra thì tình hình lạm phát đã diễn biến chậm lại. Áp dụng các chính sách hợp lý thì Việt Nam sẽ kiềm chế được lạm phát và duy trì ở mức độ cho phép. Tiến triển của lạm phát trong các tháng cuối năm 2008 hứa hẹn tình hình lạm phát khả quan hơn trong những năm tiếp theo.
2.2.3. Tác động của lạm phát năm 2008
Sự tăng giá của nguyên liệu, lương thực, thực phẩm, các yếu tố trong nước cộng hưởng với lạm phát Thế Giới đã làm cho lạm phát nước ta tăng cao trong năn 2007 và bùng phát vào các tháng đầu năm 2008. Tình hình lạm phát đã lên đến mức báo động hai con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép 9% của mỗi quốc gia. Diều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong nền kinh tế quốc gia. Nó tác động xấu đến tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội làm giảm trầm trọng tốc độ tăng trưởng GDP vì nó làm cho người dân nghèo thêm, kiềm chế sản xuất trong khối doanh nghiệp. Và lạm phát cũng tác động rất mạnh đến đời sống dân cư nhất là những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chịu sự tác động trực tiếp của lạm phát trong cơn bão tăng giá.
Giá cả tăng mạnh đã làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Khi các mức giá cả trong tương lai khó có thể dự đoán được thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó khăn hơn. Người dân ngày càng lo ngại về sức mua trong tương lai của họ và mức sống của họ cũng vì đây mà kém đi. Lạm phát cao còn kéo theo các hoạt đông đầu tư mang tính đầu cơ chuộc lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất.
2.2.3.1. Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán
Có thể nói rằng từ năm 2005-2007 thì thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng. Là kênh huy động vốn có hiệu quả trong các doanh nghiệp và trở thành tâm điểm thu hút của rất nhiều người. Tuy nhiên từ dưới năm 2007 lạm phát đã làm thị trường chứng khoán sụt giảm một cách kỷ lục. Không chỉ ở thị trường chứng khoán, các thị trường khác cũng chịu áp lực rất lớn từ lạm phát. Tiến trình trong lưu thông cùng với hình thức quay vòng của lạm phát được phân tích và chỉ rõ ở thị trườn bất động sản rộng lớn nhưng bị “đóng băng” ở giá cao. Ở thị trường vàng thì giá vàng trong nước cao hơn 10% so với giá vàng Thế giới. Ở thị trường ngoại tệ thì USD lên giá rất mạnh so với VNĐ, ngay cả khi chính đồng USD lúc đó đang bị mất giá mạnh so với các đồng tiền thông dụng khác. Vd: 1USD=0,6345 EURO giảm 10% so với tháng 9/2007 và chỉ ăn 0.9552 Đola Canada giảm 13%. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Thế giới đồng USD thấp giá trị chuyển đổi hơn so với Dola Canada. Trong khi đó tại Việt Nam, tỷ giá 15300đ/USD quý I/2008 đã lên tới 17500đ/USD.
2.2.3.2. Tác động đến ngân hàng
Hoạt động của ngân hàng thương mại cũng đã chịu những tác động nhất định từ sự tàn phá khủng khiếp của cơn bão tiền tệ này. Đối với các ngân hàng thương mại, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát cao làm cho sức mua của đồng tiền giảm xuống và ảnh hưởng xấu đến huy động vốn, cho vay đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Lạm phát tăng cao ngân hàng thắt chặt tiền tệ để giảm số lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn. Các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng được cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác do lãi suất huy động tăng cao thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này làm xấu đi về môi trường đầu tư của các ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng tiền Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn đối với các khách hàng rất lớn. Vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng tới tính thanh khoản của các ngân hàng nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xẩy ra là điều khó tránh khỏi.
2.2.3.3. Tác động đến du lịch
Du lịch cũng là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động của lạm phát. Cho dù 9 tháng đầu năm lượng khách du lịch tới Hà Nội tăng 10%. Nhưng lãnh đạo của Sở Văn hóa thể thao du lịch Hà Nội vẫn so sánh sự ảnh hưởng của lạm phát đang diễn ra tới du lịch Hà Nội như đại dịch chủng chúng ta đã trải qua hồi 2003-2004.
Theo sở Văn hóa thể thao và du lịch Hà Nội 9 tháng đầu năm 2000 tình hình lạm phát không chỉ ảnh hưởng tới khách du lịch đến Việt Nam mà còn ảnh hưởng tới lượng khách nội địa. Các hãng hàng không, ô tô, vận chuyển du lịch…vv tăng giá do giá nguyên liệu tăng cao đẩy giá TOUR vượt lên so với múc trung bình của khu vực khiến khách du lịch quốc tế chuyển hướng ảnh hưởng tới khách du lịch đến Hà Nội.
2.3. CHƯƠNG III
BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT
2.3.1. CÁC GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ
Trong tình hình kinh tế năm 2008 thì vấn đề lạm phất nổi lên là một vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng tới mọi mặt của nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Từ sự bất ổn của cơ cấu kinh tế vĩ mô cho tới cuộc sống hằng ngày của mọi người. Trước tình hình đó, Chính phủ và ngân hàng nhà nước có các biện pháp quyết liệt.
2.3.1.1. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
Cho dù do nhiều nguyên nhân nhừn lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Do đó ngân hàng nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và linh hoạt biểu hiện qua một loạt cơ chế như:
Sử dụng quản lý nhà nước khuyến cáo các ngân hàng thương mại không được nâng lái suất huy động vượt quá 12% vào cuối tháng 2/2008. Và đã chặn đứng được “cuộc đua” tăng lãi suất.
Khống chế tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán, bất động sản
Tăng dự trữ bắt buộc đối với hầu hết các loại tiền gửi vào các nhóm ngân hàng thương mại, thu tiền từ lưu thông về bằng tín phiếu bắt buộc
Từ 19/5/2008 công cụ lãi suất cơ bản được sử dụng như một quyền lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước với tư cách là ngân hàng Trung ương. Theo đó so với lãi suất cơ bản, các mức lãi suất của ngân hàng thương mại không được vượt quá 15%. Ngân hàng nhà nước dùng lãi suất này để điều mặt bằng lãi suất của thị trường trên cơ sở dựa vào tín hiệu của hiệu ứng chống lạm phát phát ra từ chính thị trường hàng hóa, dịch vụ. Gắn chặt thị trường tiền tệ, tín dụng với thị trường hàng hóa để chống lạm phát.
Thay dần những giải pháp can thiệp hành chính trực tiếp bằng các giải pháp sử dụng chính các công cụ của thị trường để linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ.
2.3.1.2. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách
Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ giảm áp lực về cầu giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Quy định cụ thể vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm. Đối với công trình chưa thực sự cần thiết thì phải có sự điều chỉnh phù hợp, cắt bỏ các chương trình kém hiệu quả đồng thời tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình đầu tư sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế đấy nhanh tiến độ sớm đưa vào sản xuất.
Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành các chương trình các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng.
2.3.1.3. Tập trung sức phát triển sản xuất công – nông nghiệp
Khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện nay tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Vì vậy phát triển sản xuất là giải pháp giúp tạo ra hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu. Vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế lại không gây ra phản ứng phụ.
2.3.1.4. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu
Cân đối cung cầu về hàng hóa nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiến đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
2.3.1.5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
Yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% các khoản chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm giảm giá thành và chi phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người mọi nhà triết để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
2.3.1.6. Tăng cường công tác quản lý thị trường
Kiểm so
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bi KTVM.doc