MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
A. Lý luận chung
I. Ngân sách nhà nước
II. Thu và chi ngân sách nhà nước
B. Thực trạng tình hình thu chi ngân sách Nhà nước 2009
I. Dự toán ngân sách nhà nước 2009
II. Kết quả đạt được
III. Nguyên nhân
C. Giải pháp
I. Các hạn chế còn tồn tại
II. Giải pháp
PHẦN KẾT LUẬN
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình ngân sách nhà nước 2009 thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
3.1) Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế :
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh
3.2) Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
3.3) Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
II. THU VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC :
1) Thu ngân sách nhà nước :
Chính phủ dùng quyền lực của mình để tập trung một bộ phận của tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của quốc gia làm nguồn để thực hiện nhiệm vụ của mình. Các nguồn thu chính:
Thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước: Thu từ sản xuất, thu từ lưu thông - phân phối hàng hóa, thu từ hoạt động dịch vụ
Thu từ nguồn thu ngoài nước: thu từ vay nợ và viện trợ của ngoại quốc
Thu ngân sách nhà nước là quyền lực của nhà nước để tập trung 1 phần thu nhập kinh tế vào tay nhà nước dể hình thành nên quỹ tiền tệ. Có nhiều khoản thu: các hoạt động kinh tế của nhà nước (hoạt động góp vốn của nhà nước; thu hồi tiền vay của nhà nước); thu từ các hoạt động vay nợ; các hoạt động bán và cho thuê TNTN và các tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước và các khoản thu khác.
2) Chi ngân sách nhà nước :
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ.
Theo chức năng nhiệm vụ, chi ngân sách nhà nước gồm:
Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng cơ bản, khấu hao tài sản xã hội
Chi bảo đảm xã hội, bao gồm: giáo dục, y tế, công tác dân số, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin đại chúng, thể thao, lương hưu và trợ cấp xã hội, các khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, quản lý hành chính, an ninh, quốc phòng, các khoản chi khác, dự trữ tài chính, trả nợ vay nước ngoài, lãi vay nước ngoài
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra:
Tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước): các khoản chi thường xuyên cho mua sắm của các cơ quan Nhà nước
Đầu tư kết cấu hạ tầng: xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản
Phân phối và tái phân phối xã hội: lương công nhân viên chức và các khoản trợ cấp xã hội, hưu trí
3) Bội chi ngân sách nhà nước :
Bội chi ngân sách nhà nước là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ bội chi ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
B. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2009
I. DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2009 : (đơn vị: Tỷ đồng)
THU CÂN ĐỐI NSNN
389,900
CHI CÂN ĐỐI NSNN
491,300
Thu nội địa
233,000
Chi đầu tư phát triển
112,800
Thu từ kinh tế quốc doanh
72,982
Trong đó: Chi đầu tư xây dựng cơ bản
107,540
Thu từ DN có vốn ĐTNN (không kể dầu thô)
51,499
Chi trả nợ và viện trợ
58,800
Thuế CTN và dịch vụ ngoài QD
46,597
Trả nợ trong nước
47,630
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
42
Trả nợ ngoài nước
10,370
Thuế thu nhập đối với người có TN cao
14,545
Chi viện trợ
800
Lệ phí trước bạ
7,251
Chi thường xuyên
269,300
Thu phí xăng dầu
5,371
Trong đó:
Các loại phí, lệ phí
7,324
Chi SN giáo dục - đào tạo
67,330
Các khoản thu về nhà, đất
24,539
Chi Y tế
23,360
- Thuế nhà đất
952
Chi dân số KHH gia đình
710
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất
Chi khoa học, công nghệ
4,390
- Thu tiền thuê đất
1,877
Chi văn hoá, thông tin
2,740
- Thu tiền sử dụng đất
21,000
Chi phát thanh và truyền hình
1,560
- Thu bán nhà ở thuộc sở hữu NN
710
Chi thể dục, thể thao
1,320
Thu khác ngân sách
2,166
Chi đảm bảo xã hội
52,931
Thu quỹ đất công ích, hoa lợi công sản tại xã
684
Chi sự nghiệp kinh tế
24,730
Thu từ dầu thô
63,700
Chi sự nghiệp môi trường
5,150
Thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK
88,200
Chi quản lý HC, Đảng đoàn thể
33,629
Tổng số thu từ hoạt động XNK
121,200
Chi trợ giá mặt hàng chính sách
930
- Thuế XNK và TTĐB hàng nhập khẩu
56,600
Hỗ trợ tài chính kinh doanh xăng dầu
- Thuế GTGT hàng hoá NK
64,600
Chi dự phòng
13,700
Hoàn thuế GTGT và k.phí q.lý thu thuế
-33,000
Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính
100
Thu viện trợ
5,000
Chi cải cách tiền lương
36,600
THU CHUYỂN NGUỒN
14,100
Chi chuyển nguồn
THU QUẢN LÝ QUA NSNN
46,960
CHI QUẢN LÝ QUA NSNN
46,960
VAY VỀ CHO VAY LẠI
25,700
VAY NN VỀ CHO VAY LẠI
25,700
TỔNG CỘNG
476,660
TỔNG CỘNG
563,960
II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC :
Theo báo cáo của Bộ Tài chính công bố ngày 30/11/2009 :
1) Tổng thu ngân sách Nhà nước: đạt 390.650 tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (vượt 750 tỷ đồng), đạt tỷ lệ động viên 23,3%GDP, trong đó :
Thu nội địa đạt 102,9% dự toán (vượt 6.650 tỷ đồng)
Thu từ dầu thô đạt 91,1% dự toán (giảm 5.700 tỷ đồng)
Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 98,6% dự toán (giảm 1.200 tỷ đồng)
Thu viện trợ đạt 6.000 tỷ đồng (vượt 1.000 tỷ đồng).
2) Tổng chi ngân sách Nhà nước: đạt 533.000 tỷ đồng, tăng 8,5% so với dự toán (41.705 tỷ đồng), trong đó :
Chi đầu tư phát triển tăng 20,1% (22.700 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 25,4% tổng chi ngân sách Nhà nước và bằng 8,1%GDP.
Chi thường xuyên (bao gồm cả bổ sung chi điều chỉnh tiền lương) ước thực hiện cả năm đạt 332.605 tỷ đồng.
Chi trả nợ và viện trợ tăng 10,2% (6.000 tỷ đồng) so với dự toán.
3) Bội chi Ngân sách Nhà nước :
Như vậy, Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 là 115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP, tăng 28.600 tỷ đồng so với dự toán, thực hiện được mức bội chi Quốc hội đề ra. Với mức bội chi này thì dư nợ Chính phủ (bao gồm cả nợ trái phiếu Chính phủ) khoảng 40%GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 30,5%GDP.
III. NGUY ÊN NHÂN :
Tình hình biến động phức tạp, dự toán thu ngân sách nhà nước chưa sát với thực tế. Kết quả là thu vượt dự toán, nhưng chi lại ở mức cao và phát sinh nhiều hơn dự kiến nên bội chi tăng mạnh.
1) Khách quan :
Nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2009 :
Kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động (số lao động trong độ tuổi thất nghiệp cao, khoảng 1,3 triệu người), và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta, đặc biệt là tình trạng sụt giảm sản xuất.
Giảm giá dầu thô : nguồn thu từ dầu thô đóng góp rất lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước (khoảng 20%). Giá dầu thô ước giảm từ 90 USD xuống 70 USD/thùng sẽ giảm thu ngân sách khoảng 36.000 tỉ đồng ở ba khoản: một là thu trực tiếp từ xuất khẩu bán dầu thô, hai là giảm ở khoản thuế nhập khẩu và xuất khẩu dầu thô, ba là thu nội địa sẽ giảm
Giảm nguồn thu từ xuất khẩu : Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản đều lâm vào suy thoái, như vậy xuất khẩu của chúng ta sang các thị trường này sẽ khó khăn.
Năm 2009, nước ta hứng chịu nhiều thiên tai : 11 cơn bão và nhiều đợt lũ lụt lớn xảy ra liên tiếp gây tổn thất nặng nề và ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Tình hình dịch bệnh năm 2009 diễn biến tương đối phức tạp. Bên cạnh một số dịch bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết, sốt rét, cúm A (H5N1), còn xuất hiện thêm dịch cúm A (H1N1) với mức độ lây lan nhanh chóng trong cộng đồng
2) Chủ quan :
2.1) Tăng chi cao :
Với mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ buộc chấp nhận thâm hụt Ngân sách, chi vượt dự toán để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2009. Trong số khoản chi vượt dự toán theo báo cáo của Chính phủ có 4 khoản vượt lớn:
Thứ nhất, chi đầu tư phát triển vượt 20,1% (tăng 22.700 tỷ đồng), tuy nhiên, tốc độ và kết quả giải ngân còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ giải ngân vốn xây dựng cơ bản tập trung 9 tháng đạt trên 60% dự toán; giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ bằng 52% kế hoạch đầu năm (36.000 tỷ đồng), nếu tính cả kế hoạch bổ sung 20.000 tỷ đồng thì tỷ lệ giải ngân còn thấp hơn nhiều.
Thứ hai, chi khác ngân sách vượt kế hoạch 1,66%.
Thứ ba, tăng chi trả nợ khoảng 6.000 tỷ đồng và sử dụng khoảng 11.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách an sinh xã hội như làm nhà ở cho người nghèo, hỗ trợ phát triển KT-XH các huyện nghèo..., đây là các khoản chi không có trong dự toán được Quốc hội quyết định, làm thay đổi dự toán chi
Thứ tư là về xử lý, thu hồi số vốn ứng trước dự toán. Hiện nay, số vốn ứng trước dự toán là rất lớn và khả năng thu hồi rất khó khăn. Theo Uỷ ban Tài chính-Ngân sách, số vốn đã ứng lũy kế đến hết năm 2009 chưa có nguồn thu hồi khoảng trên 50.000 tỷ đồng; số vốn đến hạn năm 2010 khoảng 30.600 tỷ đồng. Trong số này, một số Bộ, ngành, địa phương không có khả năng hoàn ứng kéo dài nhiều năm, tạo nên bức tranh thiếu lành mạnh trong cân đối ngân sách Nhà nước.
Số tăng chi ngoài dự toán chủ yếu là kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh (Tăng dự phòng và dự trữ quốc gia 3.000 tỷ đồng để bảo đảm an ninh lương thực và chủ động phòng chống thiên tai, dịch bệnh), chi bù lỗ kinh doanh đầu năm 2008 chưa xử lý hết, chi hỗ trợ của ngân sách Trung ương cho các địa phương để bù giảm thu cân đối ngân sách địa phương (khoảng 3.000 tỷ đồng) do thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế và thực hiện chế độ khuyến khích cho các địa phương hoàn thành vượt dự toán thu theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
Trong số tăng chi, đáng chú ý là các biện pháp kích thích nền kinh tế như Tung ra các gói kích cầu lên tới trên 8 tỷ USD, gồm :
Gói hỗ trợ tiêu dùng (hỗ trợ hộ nghèo ăn Tết, mỗi hộ nghèo 1 triệu VND, miễn thuế thu nhập cá nhân)
Đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản (kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh viên, khu chung cư cho người thu nhập thấp, v.v.), hầu như chưa triển khai được gì do nguồn vốn không có (phát hành trái phiếu không thành công)
Gói hỗ trợ đầu tư (giảm, miễn, hoãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh nghiệp Việt Nam, cho nông dân vay không lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất nông nghiệp)
Gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm (17.000 tỷ đồng). Mục đích là nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế trong ngắn hạn, và hỗ trợ tạo thêm các điều kiện cho nền kinh tế sớm phục hồi, phát triển nhanh và bền vững trong trung hạn và dài hạn.
2.2) Giảm thu lớn : Thất thu thuế do nhiều nguyên nhân
Ngoài nguyên nhân suy thoái kinh tế, sản xuất đình trệ, kinh doanh trong nước yếu kém, Ngân sách còn bị thất thu hàng nghìn tỉ đồng do việc thực hiện các chính sách hỗ trợ về thuế cho các doanh nghiệp gặp khó khăn theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được giảm 30% thuế Thu nhập doanh nghiệp, giãn nộp 70% số phải nộp, giảm 50% thuế Giá trị gia tăng của một số hàng hóa và tạm chưa nộp thuế Thu nhập cá nhân
Việc thực hiện các cơ chế, chính sách này đã có tác dụng tích cực tới sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong năm 2009 cũng như năm tiếp sau, nhưng về số thu ngân sách ngành thuế quản lý dự tính năm 2009 cũng giảm khoảng trên 22.000 tỷ đồng, tương ứng khoảng 6%-8% so với dự toán.
C. GIẢI PHÁP
I. CÁC HẠN CHẾ CÒN TỒN TẠI :
Gói kích cầu :
Dù các gói kích cầu đã ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và về cơ bản đảm bảo được an sinh xã hội nhưng nó cũng bộc lộ một số mặt hạn chế sau :
Sự thiếu công bằng :
Thực tế chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp được vay vốn(ngân hàng ưu tiên vốn cho khách hàng truyền thống, có quan hệ). Điều này đã gây ra bất bình đẳng trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, làm giảm ý nghĩa của chủ trương kích cầu.
Khu vực nông nghiệp, nông dân được hưởng từ chính sách này chưa xứng đáng, quá ít, do vậy không tạo được sự chuyển biến như mong muốn. Tuyệt đại đa số dân cư sống ở nông thôn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã không tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước (Nếu người dân mua máy móc, thiết bị, vật liệu muốn có chứng từ như quy định của chính sách kích cầu thì phải trả thêm 10% thuế giá trị gia tăng, trong khi chỉ được hỗ trợ lãi suất 4%. Vay vốn để mua phương tiện máy móc thì không phải nông dân muốn vay để mua bất kỳ loại phương tiện, máy móc nào cũng được mà phải mua hàng hóa trong nước, và hàng hóa này phải nằm trong danh mục hàng hóa được đăng ký với Bộ Công thương thì mới được hỗ trợ lãi suất)
Tăng rủi ro bất ổn cho kinh tế - xã hội:
Chi tiêu Chính phủ mở rộng nhưng hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn của nền kinh tế rất hạn chế so với các nước trên thế giới và trong khu vực cùng điều kiện sẽ dẫn đến hậu quả :
Nguy cơ tái lạm phát khi thực hiện mục tiêu kích cầu trong điều kiện hiện tại mà không có giải pháp dài hạn để đảm bảo chắc chắn nguồn vốn tới được nguồn sinh lời hiệu quả và có khả năng tái tạo nguồn thu trong tương lai
Lãi suất VND sau khi được giảm trừ 4% và lãi suất cho vay ngoại tệ tương đương nhau. Điều này dẫn đến nhu cầu vay VND tăng, làm mất cân đối cung cầu trên thị trường tiền tệ, gây sức ép tăng lãi suất VND và tăng tổng phương tiện thanh toán, gây mất cân đối trên thị trường ngoại hối, tạo sức ép tăng tỷ giá, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Ngân hàng Nhà nước can thiệp thị trường nhằm ổn định tỷ giá sẽ làm dự trữ ngoại tệ giảm.
Làm mất cơ hội sàng lọc và cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp khi việc cung ứng vốn trong bối cảnh ứng cứu không cho phép sử dụng đầy đủ quy trình thẩm định và lựa chọn người vay
Tăng nguy cơ nảy sinh tham nhũng, thậm chí có thể xuất hiện nhiều loại tội phạm mới do sự bắt tay giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp trong việc lập các dự án vay ảo để chiếm đoạt vốn hỗ trợ từ "gói kích cầu"; do nguy cơ ngân hàng nhũng nhiễu doanh nghiệp để "ăn chia" phần vốn hỗ trợ trong khi thẩm định, cho vay (theo sơ kết của Ngân hàng Nhà nước thì đã có trên 8.000 khoản vay vi phạm với khoảng 8.000 tỉ đồng)
Nợ xấu trong Ngân hàng tăng lên
Gây sức ép đối với chính mặt bằng lãi suất tiền gửi vì cần huy động nguồn vốn vay. Khi mặt bằng lãi suất tiền gửi tăng, giá các khoản vay nợ của Chính phủ sẽ trở nên đắt hơn. Tình trạng này tạo nên vòng xoáy tăng lãi suất, dẫn tới suy giảm đầu tư tư nhân (lạm phát – suy thoái – kích cầu - lạm phát). Áp lực tăng lãi suất tiền gửi là rất cao khi khối lượng nợ công dự tính trong năm 2009 để bù đắp thiếu hụt ngân sách gần 64.000 tỷ đồng. Trong đó, kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2009 là 36.000 tỷ đồng, phần bổ sung cho mục tiêu kích cầu tăng thêm là 20.000 tỷ đồng, phần chuyển nguồn trái phiếu Chính phủ từ năm 2008 sang 2009 là 7.700 tỷ đồng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh bị bóp méo
Cơ chế hỗ trợ lãi suất được thực hiện trong ngắn hạn (8 tháng), diện cho vay hỗ trợ lãi suất rất rộng, và khi thiết kế phương án chỉ mới ở mức chung, nên không kiểm soát hiệu quả thực chất của các khoản tín dụng : dùng vốn vay để đảo nợ, đầu tư vào chứng khoán hoặc đầu tư vào bất động sản. Lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay nên có doanh nghiệp vay vốn hỗ trợ lãi suất thấp tại ngân hàng này và gửi sang ngân hàng khác để hưởng chênh lệch (chỉ có 100.000 tỷ đồng vốn được đưa vào đầu tư mới của khu vực dân doanh trong khoáng 404.300 tỷ đồng được giải ngân từ vốn vay hỗ trợ lãi suất 4%)
Nguy cơ thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ nần khi các dự án vay đầu tư được lập ra có chất lượng thấp hoặc triển khai kém, giải ngân không đúng mục đích vay.
2) Cơ cấu thu không vững chắc :
Nguồn thu còn phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài như dầu thô (20% tổng thu), thu từ nội địa còn thấp làm ngân sách nhà nước không ổn định.
Thực hiện, quản lý, kiểm tra ngân sách chưa chặt chẽ, kém hiệu quả :
Thực hiện dự toán chi ngân sách chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để.
Việc thực hiện các kết luận của kiểm toán vẫn chưa thực sự nghiêm túc. Tỷ lệ thực hiện của các cơ quan Trung ương chỉ đạt 70%, địa phương là gần 90%, các doanh nghiệp gương mẫu hơn đạt 98%. Các vi phạm không giảm thậm chí năm sau còn cao hơn năm trước. Nếu như năm 2007, tổng số tiền kiểm toán phát hiện, kiến nghị thu hồi, xử lý là 2.900 tỷ thì năm 2008 là 4.600 tỷ và 9 tháng đầu năm 2009 đã là 3.500 tỷ
Đầu tư dàn trải, giải ngân chậm, đặc biệt là giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong 9 tháng đạt có 52%.
Tình hình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước vẫn thấp so với tiềm năng và yêu cầu. Tình trạng lãng phí trong một số lĩnh vực như đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai vẫn chậm được khắc phục (thậm chí có trường hợp do động cơ tham nhũng dẫn đến các vi phạm về quản lý, kéo theo hậu quả lãng phí); trong đó đặc biệt là những tồn tại, hạn chế trong quy hoạch, kế hoạch (bao gồm cả quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất…). Ví dụ: Chuyện Vinashin mua tàu Hoa Sen (trên 1.000 tỉ đồng) để làm du lịch nhưng giờ phải nằm bến. Việc chi thưởng 1.500 tỷ đồng cho những địa phương vượt thu.
Việc xác định các công trình trọng điểm và xếp thứ tự ưu tiên các dự án chưa được đánh giá đúng mức, dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn vốn, lãng phí về vật chất, lãng phí về đất đai khi bị thu hồi, lãng phí về trang thiết bị đã được lắp đặt, không phát huy được hiệu quả xã hội, nhất là các công trình có liên quan đến các hoạt động của đời sống xã hội.
Hiện tượng trốn thuế, gian lận thương mại, nợ đọng là rất nhiều, đặc biệt vẫn chưa kiểm soát được trốn thuế.
Bất cập trong dự toán ngân sách :
Dự toán ngân sách chưa thực sự được tổ chức xây dựng, tổng hợp từ đơn vị sử dụng ngân sách
Dự toán ngân sách theo các lĩnh vực chi chưa có căn cứ vững chắc, còn nhiều tồn tại
Dự toán thu, chi chưa có sự bảo đảm tính khách quan và phần nào còn chứa đựng ý kiến chủ quan của cơ quan soạn lập ngân sách.
Dự toán thu chưa tích cực và chưa bao quát hết nguồn thu
Dự toán chi đầu tư phát triển còn bất cập do công tác lập kế hoạch chi đầu tư còn nhiều tồn tại, hạn chế
Dự toán chi thường xuyên thiếu tích cực và phần nào còn mang tính chủ quan
Dự toán chi thường xuyên của một số nhiệm vụ chưa có đầy đủ căn cứ và cơ sở khoa học
Quy lập dự toán chi còn có sự tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển
II. GIẢI PHÁP :
1) Luật :
Luật Ngân sách Nhà nước: cần được theo dõi sát tình hình thực tế để có những điều chỉnh phù hợp và nâng cao chất lượng dự toán ngân sách. Sửa Luật Ngân sách để Quốc hội tham gia sớm hơn vào quá trình quyết ngân sách, nghiên cứu, góp ý cho dự toán Ngân sách. Luật Ngân sách nên điều chỉnh cho phép điều tiết khoản vượt thu của địa phương về trung ương trong khi trung ương lại có nhiệm vụ hỗ trợ cho những nơi thu không đủ chi
Luật thuế : Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng nên đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh, hỗ trợ cho danh nghiệp. Việc gỡ bỏ giảm, giãn, miễn thuế nên được thực hiện để tạo nguồn cung cho ngân sách quốc gia vì nền kinh tế đã đi qua suy thoái. Cải cách chính sách thuế cho phù hợp, thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước và nước ngoài; phát huy chức năng phân phối lại trong điều tiết thu nhập xã hội và dân cư.
Thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trong đó cần chú trọng việc quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước, việc mua sắm và sử dụng phương tiện đi lại, việc tổ chức các đoàn đi giao lưu, tham quan, du lịch trong và ngoài nước; thực hiện nghiêm quy định về chế độ họp của các cơ quan hành chính nhà nước và Chỉ thị số 26/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm dùng công quỹ làm quà biếu và chiêu đãi khách sai quy định.
2) Vay nợ nước ngoài : Mục đích nhằm tạo nguồn cho các khoản chi tiêu của Chính phủ, giải quyết được các bài toàn đặt ra: bù đắp thâm hụt ngân sách; hạ thấp mặt bằng lãi suất, cân bằng thị trường ngoại hối... Các khoản nợ vay cấp bách trước mắt phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo nguồn trả nợ trong tương lai. Tuy nhiên hiện nay, việc vay nước ngoài cũng không thể vay được nữa, trần đã sát vì trần cho phép là 30-40% GDP, trong khi nợ công đã hơn gần 46%GDP.
3) Phát hành trái phiếu : Năm 2010 không nên tăng số phát hành trái phiếu Chính phủ vì thực tế việc giải ngân rất chậm.
4) Phát hành tiền : Giải quyết được thâm hụt trước mắt, nhưng về dài hạn lại gây lạm phát. Nên cần cẩn thận và phải tính toán hợp lý trước khi phát hành tiền, nhất là trong tình trạng nước ta đang đứng trước nguy cơ lạm phát cao như hiện nay.
5) Tái cấu trúc nền kinh tế:
Cần tái cấu trúc kinh tế theo ba yếu tố: chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh để nâng cao hiệu quả sản xuất nội địa, góp phần ổn định ngân sách từ nguồn thu vững chắc. Nếu ta đi hướng xuất khẩu thì chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô, xuất khẩu tài nguyên, thì nó sẽ mau chóng cạn kiệt và nguồn thu Ngân sách phụ thuộc vào biến động thị trường lớn, không ổn định.
Cần tiếp tục thực hiện các chính sách kích thích kinh tế, nhưng tập trung cho các mục tiêu trung và dài hạn, cho mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế. Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh sự phát triển hiệu quả, bền vững của các doanh nghiệp làm cơ sở cho việc tăng thu từ nội lực nền kinh tế
Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa, các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Tăng cường quản lý, hoạt động vĩ mô ổn định và hiệu quả:
Phân bố Ngân sách cần hiệu quả và tránh dàn trải, gắn với yêu cầu thực tế : các chương trình mục tiêu quốc gia, phải rà soát một cách kỹ càng, xem cái nào trùng lắp thì lồng ghép lại để tăng tính hiệu quả; hạn chế chi cho các tổ chức hội nghề nghiệp, hỗ trợ đào tạo tại các tập đoàn kinh tế,… Triệt để tiết kiệm, cắt giảm những khoản chi chưa thực sự cần thiết hoặc kém hiệu quả. Ưu tiên đầu tư giải ngân cho các dự án, công trình có tính chất cấp bách, quan trọng, có khả năng kích thích phát triển kinh tế của vùng, miền, những dự án mang lại nguồn thu NSNN lớn, tạo việc làm cho người lao động
Tập trung các biện pháp để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn gồm vốn NSNN tập trung, vốn trái phiếu chính phủ (TPCP), vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư, vốn đầu tư của các DN nhà nước, nhất là với các công trình dự án quy mô lớn, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cần đổi mới công tác xây dựng dự toán, có tầm nhìn dài hạn để tránh tình trạng áp đặt sản lượng và dự báo không sát về giá dầu, gây bị động trong cân đối ngân sách.
Kiểm soát chặt chẽ việc chi ngân sách nhà nước, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để khắc phục tình trạng chi vượt dự toán, vay ứng trước để chi khi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình hình ngân sách nhà nước 2009 thực trạng và giải pháp.docx