Các nguồn tài chính huy động cho hoạt động cứu trợ xã hội sẽ được sử dụng để chi cho các khoản trợ cấp cứu trợ và chi tiêu cho công tác quản lý hoạt động cứu trợ. Cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính nhân đạo nhân văn cao, đồng thơi có đặc điểm vừa có thể cứu trợ bằng tiền vừa có thể cứu trợ bằng hiện vật. Vì thế, khi sử dụng các nguồn tài chính cho hoạt động cứu trợ cần chú ý một số nguyên tắc: thứ nhất , việc sử dụng nguồn tài chính cần đảm bảo đúng đối tượng, đúng thời điểm, đáp ứng được mong mỏi của đối tượng cấn được cứu trợ; thứ hai, các nguồn lực lực tài chính phải đảm bảo tính hài hòa; thứ ba, việc xác định chi tiêu cho cứu trợ xã hội cần bao hàm cả giá trị thành tiền lien quan tới các khoản cứu trợ bằng hiện vật.
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình pháp luật cứu trợ xã hội nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở bất kì giai đoạn phát triển nào, bất kì chế độ xã hội nào cũng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống. Những rui ro, bất hạnh, những khó khăn ngoài ý muốn đã luôn làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình cảnh yếu thế trong xã hội. Để có thể tồn tại và phát triển, họ cần được sự trợ giúp của xã hội mà trong đó Nhà nước đóng vai trò hết sưc quan trọng nhờ có hệ thống ASXH của mình.
An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ. Trong đó, Cứu trợ xã hội là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội. Theo nghĩa thông thường, cứu trợ xã hội được hiểu là chế độ đảm bảo xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong đời sống. Việc đảm bảo này thông qua các hoạt động cung cấp tài chính, tiền bạc, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác trong một thời hạn hoặc trong suốt quá trình sống (suốt cuộc đời) của đối tượng. Cứu trợ xã hội được coi như là "lưới đỡ cuối cùng" trong hệ thống các lưới đỡ an sinh xã hội.
a. Khái niệm.
Cứu trợ xã hội là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội. Theo nghĩa thông thường, "cứu trợ xã hội được hiểu là chế độ đảm bảo xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong đời sống. Việc đảm bảo này thông qua các hoạt động cung cấp tài chính, tiền bạc, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác trong một thời hạn hoặc trong suốt quá trình sống (suốt cuộc đời) của đối tượng"
Đối tượng của cứu trợ xã hội có thể là gia đình, có thể là cá nhân. Có những trường hợp cứu trợ xã hội được áp dụng để giải quyết khó khăn cho cả vùng gặp nạn hoặc cả một địa phương.
Cứu trợ xã hội được coi như là "lưới đỡ cuối cùng" trong hệ thống các lưới đỡ an sinh xã hội. Vì vậy nó được coi là chế độ đảm bảo cộng đồng mang tính nhân đạo, nhân văn rất cao, thể hiện tình người rõ rệt.
Tuy nhiên, hoạt động cứu trợ xã hội không chỉ là của cá nhân, tổ chức bất kỳ trong xã hội mà trách nhiệm chính là của nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm cao nhất trong việc tổ chức các hoạt động cứu trợ xã hội, với tư cách là đại diện của xã hội. Các chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội do nhà nước ban hành, xây dựng là cơ sở quan trọng để các tổ chức, cơ quan, cá nhân tiến hành các hoạt động cứu trợ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn đảm bảo sự công bằng, minh bạch, đúng đắn và tính hợp pháp của cứu trợ xã hội.
Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, hiện nay có nhiều khái niệm về cứu trợ xã hội. Nếu hiểu một cách bao quát nhất, cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của nhà nước và của cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu …dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn ngheo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường.
3. Những quan điểm cơ bản trong cứu trợ xã hội:
a. Cứu trợ xã hội là hình thức dành cho tất cả những người cần được cứu trợ
Hay nói cách khác, mỗi người trong xã hội đều có quyền hưởng CTXH khi cần thiết. Mỗi cá nhân đều có quyền sống , làm việc và hưởng thụ các thành quả của xã hội như tất cả các thành viên khác. Tuy nhiên, có rất nhiều biến cố bất ngờ khiến cho các cá nhân, hộ gia đình có thể rơi vào tình trạng cực kì vất vả khó khăn, không tìm được phương cách để sinh sống. Nhà nước và toàn thể cộng đồng thực hiện hoạt động cứu trợ để các quyền con người của các cá nhân và các nhóm dân cư yếu thế luôn được đảm bảo. Hoạt động này không chỉ đơn thuần là sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau mà còn thể hiện sự tôn trọng quyền con người của toàn xã hội đối với mọi cá nhân, thể hiện được một thuộc tính của xã hội văn minh
b. Các đối tượng cũng phải có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng.
Theo quan điểm này, cứu trợ xã hội được thực hiện theo hướng đưa cần câu chứ không phải đưa xâu cá. Những đối tượng được hưởng cứu trợ phải tự khẳng định mình, tránh tư tưỏng ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của xã hội, của cộng đồng. Trước khi được cứu trợ, các đối tượng được cứu trợ cần phải cố gắng bằng tiềm lực còn lại để lo liệu cải thiện khó khăn trong cuộc sống.
III. Cơ sở luật pháp và tình hình cứu trợ xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1. Cơ sở luật pháp.
Ở Việt Nam, dù thuật ngữ “An sinh xã hội” mới chỉ xuất hiện vào những năm 70 trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả Sài Gòn nhưng CTXH đã xuất hiện từ rất lâu đời, trong truyền thống đạo đức của dân tộc Việt "lá lành đùm lá rách"..., và rất phong phú về hình thức. Hiện nay, CTXH được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm và là một trong những chính sách lớn của Nhà nước, thề hiện qua Nghị định số 07/2000/ND-CP quy định rất rõ vể đối tượng được hưởng, chế độ hưởng, cụ thể như sau:
a. Đối tượng được hưởng CTXH thường xuyên
Điều 6. Người thuộc diện cứu trợ xã hội thường xuyên tại xã, phường quản lý gồm:
1. Trẻ em mồ côi là trẻ em dưới 16 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân thích để nương tựa; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 88 của Bộ Luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật;
2. Người già cô đơn không nơi nương tựa là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân. Người già còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, không có nguồn thu nhập. Trường hợp là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập, từ đủ 55 tuổi trở lên, hiện đang được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội vẫn tiếp tục được hưởng;
3. Người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không có nơi nương tựa; người tàn tật nặng tuy có người thân thích nhưng họ già yếu hoặc gia đình nghèo không đủ khả năng kinh tế để chăm sóc;
4. Người tâm thần mãn tính là người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện đói nghèo.
Điều 7. Người thuộc diện cứu trợ xã hội quy định tại Điều 6 của Nghị định này thuộc diện đặc biệt khó khăn không tự lo được cuộc sống thì được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội.
Điều 8. Những người có hoàn cảnh như người thuộc diện cứu trợ xã hội nhưng còn nơi nương tựa, có nguồn nuôi dưỡng mà gia đình làm đơn tự nguyện đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội, được cấp có thẩm quyền đồng ý thì gia đình phải chịu mọi chi phí theo quy định.
Ngân sách Nhà nước không hỗ trợ kinh phí cho đối tượng nói tại Điều này.
Điều 9.
1. Trẻ em từ 13 tuổi trở lên thuộc các cơ sở bảo trợ xã hội không còn học văn hóa thì được giới thiệu đến các trung tâm dạy nghề để học nghề theo quy định hiện hành của Nhà nước.
2. Trẻ em đã trưởng thành, người tàn tật đã phục hồi chức năng, người bệnh tâm thần đã ổn định, đang ở cơ sở bảo trợ xã hội thì được đưa trở về địa phương. ủy ban nhân dân xã, phường, gia đình có trách nhiệm tiếp nhận và tạo điều kiện cho họ có việc làm và hoà nhập với cộng đồng.
Mức trợ cấp đươc hưởng.
Điều 10.
1. Mức trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên tối thiểu do xã, phường quản lý bằng 45.000 đồng/người/tháng.
2. Mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng tối thiểu tại cơ sở bảo trợ xã hội của nhà nước bằng 100.000 đồng/người/tháng; riêng đối với trẻ em dưới 18 tháng tuổi phải ăn thêm sữa, mức trợ cấp bằng 150.000 đồng/người/tháng.
Điều 11. Ngoài trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Nghị định này, các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội thuộc nhà nước quản lý được hưởng thêm các khoản trợ cấp sau :
1. Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày;
2. Trợ cấp mua thuốc chữa bệnh thông thường;
3. Trợ cấp mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập đối với trẻ em đi học phổ thông, bổ túc văn hóa;
4. Trợ cấp hàng tháng vệ sinh cá nhân đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ;
5. Trợ cấp mai táng phí.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức trợ cấp phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Nguồn tài chính.
Điều 12. Cơ sở bảo trợ xã hội được tiếp nhận, sử dụng và quản lý các nguồn kinh phí và hiện vật (nếu có) do các tổ chức, cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện; bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và thanh quyết toán theo chế độ tài chính hiện hành.
Điều 13. Nguồn kinh phí nuôi dưỡng, kinh phí hoạt động bộ máy và kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản của các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc cấp nào quản lý do ngân sách cấp đó bảo đảm theo quy định hiện hành của Luật Ngân sách Nhà nước.
b. Cứu trợ xã hội đột xuất.
Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của nhà nước và hội về điều kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp rủi ro hoặc khó khăn bất ngờ khiến cho cuộc sống của họ tạm thời bị đe dọa, nhằm giúp họ nhanh chóng vượt qua sự hẫng hụt, ổn định cuộc sống và sớm hoà nhập cộng đồng. Cứu trợ đột xuất thường được thực hiện trong các trường hớp có thiên tai, mất mùa hoặc xảy ra các biến cố gây ra cho người dân các mối đe doạ về lương thực, nhà ở, bệnh tật đình trệ sản xuất.
Đối tượng được hưởng cứu trợ đột xuất thường là những cá nhân, những hộ gia đình gặp khó khăn do hậu quả của thiên tai hoặc các lý do bất khả kháng khác. Cứu trợ xã hội đột xuất có tính tức thời khẩn cấp. Để cứu trợ xã hội đột xuất đảm bảo được tính hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải thực hiện cứu trợ đúng thời điểm, kịp thời đúng đối tượng. Ngoài ra do đối tượng được ởng cứu trợ thường rộng và có hoàn cảnh rủi ro khác nhau nên cần cân nhắc cho thứ tự ưu tiên cứu giúp cho các đối tượng được hưởng. Đối tượng nào gặp khó khăn nhất sẽ được ưu tiên trước nhất, với những đối tượng có hoàn cảnh kinh tế khác nhau thì cách tợ giúp cụ thể cũng khác nhau.
Tại Việt Nam thi đối tượng được trợ cấp, mức trợ cấp và nguồn tài chính cho cứu trợ đột xuất được quy định rất rõ tại Nghị định số 07/2000/ND_CP như sau:
Điều 14. Đối tượng được cứu trợ xã hội đột xuất (một lần) là những người hoặc hộ gia đình khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác gây ra, bao gồm:
1. Hộ gia đình có người bị chết, mất tích;
2. Hộ gia đình có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng;
3. Hộ gia đình mất phương tiện sản xuất, lâm vào cảnh bị thiếu đói;
4. Người bị thương nặng;
5. Người thiếu đói do giáp hạt;
6. Người gặp phải rủi ro ngoài vùng cư trú mà bị thương nặng hoặc chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc mai táng;
7. Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú.
Điều 15. Mức trợ cấp cứu trợ xã hội đột xuất đối với từng nhóm đối tượng quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 14 của Nghị định này do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định tuỳ mức độ thiệt hại và khả năng huy động nguồn lực.
Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú được trợ cấp 5.000 đồng/người/ngày, nhưng không quá 15 ngày.
Điều 16. Nguồn kinh phí để thực hiện cứu trợ đột xuất bao gồm:
1. Ngân sách Nhà nước cân đối hàng năm; Ngân sách tỉnh, huyện, xã tự cân đối;
2. Do các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ;
3. Trợ giúp của nước ngoài, tổ chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho địa phương hoặc thông qua Chính phủ, các đoàn thể xã hội.
Trường hợp các nguồn kinh phí trên không đủ để thực hiện cứu trợ đột xuất thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định
c. Về tài chính cứu hộ và tổ chức thực hiện được quy định trong những điều sau:
Điều 17. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác cứu trợ xã hội; chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn thực hiện Nghị định này.
Điều 18.
1. Bộ Tài chính có trách nhiệm đảm bảo kinh phí cứu trợ xã hội theo quy định hiện hành và phù hợp với Luật Ngân sách Nhà nước.
2. Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn việc phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh cho người thuộc diện cứu trợ xã hội và giám định tình trạng bệnh tật của người tâm thần, người tàn tật.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn việc tổ chức học văn hóa; miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp khác cho học sinh là người thuộc diện cứu trợ xã hội theo chế độ hiện hành.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định mức độ hậu quả thiên tai, mất mùa và đói giáp hạt để có biện pháp và hướng dẫn tổ chức thực hiện việc cứu trợ xã hội đột xuất.
Điều 19. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
1. Quản lý người thuộc diện cứu trợ xã hội và cơ sở bảo trợ xã hội thuộc địa phương;
2. Tổ chức thực hiện chế độ cứu trợ xã hội đối với từng nhóm người thuộc diện cứu trợ xã hội được quy định tại Nghị định này;
3. Chỉ đạo việc xây dựng, quản lý các cơ sở bảo trợ xã hội thuộc địa phương;
4. Chỉ đạo cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, các ngành chức năng hướng dẫn các tổ chức và cá nhân hỗ trợ người thuộc diện cứu trợ xã hội;
5. Hàng năm lập dự toán kinh phí cứu trợ xã hội thường xuyên, cứu trợ xã hội đột xuất theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành; hướng dẫn ủy ban nhân dân cấp dưới, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội và các ngành chức năng xây dựng và tổng hợp kế hoạch kinh phí cứu trợ xã hội thường xuyên, cứu trợ xã hội đột xuất.
Các nguồn tài chính huy động cho hoạt động cứu trợ xã hội sẽ được sử dụng để chi cho các khoản trợ cấp cứu trợ và chi tiêu cho công tác quản lý hoạt động cứu trợ. Cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính nhân đạo nhân văn cao, đồng thơi có đặc điểm vừa có thể cứu trợ bằng tiền vừa có thể cứu trợ bằng hiện vật. Vì thế, khi sử dụng các nguồn tài chính cho hoạt động cứu trợ cần chú ý một số nguyên tắc: thứ nhất , việc sử dụng nguồn tài chính cần đảm bảo đúng đối tượng, đúng thời điểm, đáp ứng được mong mỏi của đối tượng cấn được cứu trợ; thứ hai, các nguồn lực lực tài chính phải đảm bảo tính hài hòa; thứ ba, việc xác định chi tiêu cho cứu trợ xã hội cần bao hàm cả giá trị thành tiền lien quan tới các khoản cứu trợ bằng hiện vật.
Ngoài ra, Chính phủ còn thường xuyên ban các nghị định sửa đổi, bổ xung các chính sách về cứu trợ xã hội cho phù hợp với tình hình hiện tại. Ví dụ: Nghị định 168/2004/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 20/9/2004 có sửa đổi một số điều trong nghị định 07/2000/NĐ-CP như sau:
"Điều 10.
1. Mức trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên thấp nhất do xã, phường quản lý bằng 65.000 đồng/người/tháng.
2. Mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất tại cơ sở Bảo trợ xã hội của Nhà nước bằng 140.000 đồng/người/tháng; riêng đối với trẻ em dưới 18 tháng tuổi phải ăn thêm sữa và trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất bằng 210.000 đồng/trẻ em/tháng.
3. Mức trợ cấp sinh hoạt phí nuôi dưỡng thấp nhất đối với người tâm thần mãn tính tại các cơ sở Bảo trợ xã hội của Nhà nước bằng 160.000 đồng/người/tháng.
4. Các đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc khám, chữa bệnh miễn phí theo quy định hiện hành."
"Điều 15.
1. Mức trợ cấp cứu trợ xã hội đối với từng nhóm đối tượng quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 14 của Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tuỳ mức độ thiệt hại và khả năng huy động nguồn lực.
2. Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú được trợ cấp 7.000 đồng/người/ngày, nhưng không quá 15 ngày."
2. Tình hình pháp luật CTXH nước ta hiện nay.
Ở nước ta, do hoàn cảnh địa lý khí hậu, lịch sử, xã hội, cứu trợ xã hội có vai trò quan trọng không thể thiếu trong chính sách xã hội quốc gia. Nước ta nằm trong khu vực địa lý nhiệt đới gió mùa, thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Song điều kiện khí hậu thời tiết cũng rất khắc nghiệt. Có những năm thiên tai bão lụt xảy ra lien tục làm cho không ít người dân rơi vào cảnh mất nhà cửa tài sản, thất thu mùa màng. Lịch sử đất nươc trải qua hang chục năm chiến tranh và hậu quả để lại còn rất nặng nề. Cùng với đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày càng bộ lỗ rõ khiến cho bộ phận người nghèo càng lúc càng khốn khổ hơn. Tuy đất nước còn nghèo, nhưng hoạt động cứu trợ xã hội ở nước ta vấn ngày càng phát triển và đi vào ổn định. Theo đánh giá chung , Việt Nam được coi là nước luôn có cam kết mạnh mẽ về sự phát triển xã hội. So với các nước trong khu vực , Việt Nam là nước có chương trình cứu trợ xã hội khá toàn diện. với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội nước ta luôn được củng cố và tăng cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo , yếu thế có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên, trong thực tế tình hình thực hiện các chính sách CTXH vẫn còn rất nhiều những bất cập cần được giải quyết:
Hệ thống an sinh xã hội có ảnh hưởng không đồng đều lên toàn bộ dân số. Theo báo cáo của chương trình phát triển LHQ (UNDP), sự phát triển kinh tế của Việt Nam đã kéo theo sự mất cân bằng trong hệ thống ASXH khi những người giàu được hưởng nhiều lợi ích từ ASXH hơn những người nghèo. Các hộ trong nhóm 20% giàu nhất nhận được 40% lợi ích ASXH trong khi con số này với các hộ trong nhóm 20% nghèo nhất chỉ là 7%. Người dân sống ở thành phố được hưởng lợi ích từ ASXH hơn ở nông thôn, người dân tộc kinh, hoa được hưởng nhiều lợi ích hơn người dân tộc thiểu số, người miền Bắc được ưu đãi nhiều hơn miền Nam.
Chi phí người nghèo phải chi trả cho các hoạt động y tế, giáo dục còn cao khiến cho thực chất lợi ích họ nhận được từ các hoạt động ASXH là rất thấp.
Đặc biệt trong những năm gần đây, do tình hình bão lũ, thiên tai nghiêm trọng nhà nước ta đã có những chính sách hỗ trợ thiết thực với người dân vùng thiên tai, vùng lũ. Cùng với những quỹ vì người nghèo, mỗi địa phương đều có những quỹ hỗ trợ người dân trong điều kiện thiên tai xảy ra. Tuy nhiên, việc thực thi những chính sách này còn nhiều bất cập, đặc biệt là tình hình tham nhũng, ăn chặn tiền hỗ trợ của người dân nghèo, người dân vùng thiên tai vẫn là quốc nạn của nhà nước. Mỗi năm có hàng nghìn tỉ đồng tiền cứu trợ không đến được với người dân nghèo. Cũng theo UNDP, có đến hơn 70% tiền cứu trợ không thực sự đến được tay người dân. Đây quả là một con số đáng báo động đòi hỏi những biện pháp mạnh tay, kịp thời của nhà nước để chấn chỉnh
X.phần mở đầu
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải có điều kiện bảo đảm về ăn, mặc, ở v.v... Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi của cải xã hội càng có nhiều thì mức độ thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu cho cuộc sống phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời không phải lúc nào con người cũng có thể lao động tạo ra thu nhập, trái lại có nhiều trường hợp xảy ra gây cho con người bị giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, tai nạn, già yếu, thất nghiệp... Đồng thời cuộc sống của con người còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội. Những điều kiện này không phải lúc nào ở đâu cũng thuận lợi. Những rủi ro, bất hạnh do thiên tai hoặc môi trường gây ra cho con người là không thể tránh khỏi.
Khi gặp phải những trường hợp rủi ro, thiếu nguồn thu nhập để sinh sống con người đã giải quyết bằng nhiều cách khác nhau. Từ xa xưa con người đã có sự san sẻ, đùm bọc của cộng đồng. Lòng nhân ái, sự bao bọc đã hình thành những hoạt động cứu tế của các tổ chức tôn giáo, phường hội, giúp con người giảm đi những k.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI
1. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội
a. Khái niệm cứu trợ xã hội
Có thể nói, cứu trợ xã hội là
một hoạt động mang tính chất từ thiện, tương thân tương ái giúp đỡ nhau của con người trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Không phải lúc nào trong cuộc sống con người cũng gặp được những điều kiện thuận lợi, những cơ may như mong muốn mà có những lúc họ phải đối mặt với rủi ro, bất hạnh, hiểm nguy và những bất trắc trong cuộc sống.
Do đó,
con người phải nương tựa vào nhau thông qua các hình thức trợ giúp phong phú. Có thể là trợ giúp trên cơ sở thông cảm, chia sẻ, có thể là sự trợ giúp bằng tiền hoặc hiện vật, có thể là sự phát chẩn cứu đói, có thể thông qua các hiệp hội…
Cứu trợ xã hội
là một trong nhữngững vấn đề được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động cứu trợ xã hội được thực hiện trên thực tế.
Không giống như bảo hiểm xã hội hay ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính rộng khắp về phạm vi và về chủ thể, do đó quan tâm đến đối tượng của cứu trợ xã hội là một vấn đề tất yếu của nhà nước trong cácquá trình phát triển của lịch sử.
Cứu trợ xã hội là một thuật ngữ đã đượccác sách bá, tạp chí bàn đến, nhưng thuật ngữ này vẫn chưa được ghi nhận chính thức trong hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước ta.
Có quan điểm cho rằng, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính chất từ thiện của nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp cho các đối tượng bị rủi ro, bất hạnh vì những lý do khác nhau không thể tự bảo đảm cuộc sống giúp họ hoà nhập vào cộng đồng.
Cứu trợ xã hội là khái niệm dùng để chỉ mọi hình thức và biện pháp giúp đỡ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc ssống tối thiểu của bản thân và gia đình. Có quan điểm cho rằng cứu trợ xã hội là thuật ngữ được kết hợp từ thuật ngữ “trự giúp xã hội”. Cứu tế xã hội là sự giúp đỡ bằng tiền hoặc hiện vật có tính cấp thiết giúp đỡ cho những thành viên trong xã hội không thể tự lo liệu cuộc sống do gặp rủi ro, bất hạnh.
Cứu tế xã hội có tính chất tức thì giúp cho thành viên xã hội thoát khỏi cảnh hiểm nghèo, có thể dẫn đén cái chết. Trợ giúp xã hội là hoạt động chủ yếu của trợ cấp xã hội, nó vừa mang tính chất “cấp cứu” tức thời vừa mang tính chất tượng trợ lâu dài.
Trợ giúp xã hội được hiểu là sự giúp đỡ thêm bằng tiền, điều kiện sinh hoạt để cho thành viên trong xã hội gặp hoàn cảnh khó khăn bất hạnh, rủi ro có thể phát huy nội lực hoà nhập vào cộng đồng và xã hội. Tóm lại, cứu trợ xã hội được hiểu là sự giúp đỡ dưới các hình thức khác nhau của nhà nước và cộng đồng cho cácthành viên trong xã hội bị rủi ro, bất hạnh, khó khăn…giúp họ bảo đảm và ổn định cuộc sống hoà nhập vào cộng đồng b. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội
. Pháp luật cứu trợ xã hội là
tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành quy định các đối tượng, điều kiện, chếđộ trợ cấp cụ thể và trách nhiệmcủa nhà nước cộng đồng trong việc góp phần đảm bảo và ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội gặp rủi ro, khó khăn, bất hạnh
2.
Các đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội
Pháp luật cứu trợ xã hội có những đặc trưng cơ bản sau
: Thứ nhất,
đối tượng tham gia quan hệ cứu trợ xã hội bao gồm nhà nước, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Không giống như chế độ bảo hiểm xã hội, những người thamgia hỗ trợ 62
kinh phí vào việc đảm bảo cho quan hệ cứu trợ được thự hiện chủ yếu là sự đóng góp của nhà nước cùng sự ủng hộ, quyên góp của cộng đồng
Thứ hai,
đối tượng hưởng cứu trợ xã hội là mọi thành viên trong xã hội khi có các sự kiện pháp lý xảy ra do nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Nếu như đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội là những người lao động theo nghĩa rộng tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi,người tàn tật, người tâm thần, người gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác…
Thứ ba
, mức hưởng trợ cấp phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng đối tượng, mức độ rủi ro mà không tính đến sự đóng góp của đối tượng được thụ hưởng. Có thể nói, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính chất từ thiện giúp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn hay gặp rủi ro, bất hạnh. Do đó, người được hưởng cứu trợ xã hội trên cơ sở trách nhiệm của cộng đồng mà không có bất cứ sự đóng góp nào miễm là thoả mãn các điều kiện để thụ hưởng.
Thứ tư, tính chất của trợ cấp cứu trợ xã hội mang tính linh hoạt, đa dạng phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào sự ủng hộ, quyên góp của cá nhân, tổ chức và cộng đồng tại thời điểm trợ cấp. Do đó, tuỳ từng đối tượng khác nhau mà có các chế độ trợ cấp khác nhau
tính chất của trợ cấp cứu trợ xã hội mang tính linh hoạt, đa dạng phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào sự ủng hộ, quyên góp của cá nhân, tổ chức và cộng đồng tại thời điểm trợ cấp. Do đó, tuỳ từn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21488.doc