MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU . 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ FDI . 2
Khái niệm về đầu tư nước ngoài . 2
Các hình thức FDI phổ biến và đặc trưng của chúng . 3
Các nhân tố thúc đẩy đầu tư nước ngoài FDI . 7
Lợi ích vủa việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI 9
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA FDI TRÊN THẾ GIỚI .
11
Tình hình phát triển của FDI từ đầu thế kỉ XX đến giữa những năm 90 của thế kỉ XX
11
Tình hình vận động của FDI từ năm 2000 đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 .
13
FDI với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay . 22
Tìm hiểu sơ qua về báo cáo đầu tư FDI 2010 của UNCTAD và dự đoán xu thế phát triển của FDI trong các năm tới
24
CHƯƠNG III: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THU HÚT VỐN FDI TẠI VIỆT NAM . 29
Tình hình FDI tại Việt Nam . 29
Hạn chế FDI đầu tư tại Việt Nam 31
Nguyên nhân của những hạn chế về thu hút FDI của Việt Nam 32
Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI tại Việt Nam . 34
KẾT LUẬN . 36
36 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3660 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình hình và xu hướng phát triển FDI trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
Tham gia mạng lưới và sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA FDI TRÊN THẾ GIỚI
Tình hình phát triển của FDI từ đầu thế kỉ XX đến giữa những năm 90 của thế kỉ XX
Từ đầu thế kỉ XX đến giữa những năm 90 của thế kỉ XX, cùng tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới, FDI cũng có những thay đổi lớn đáng kể về nước chủ đầu tư, các nước nhận đầu tư và các lĩnh vực hoạt động được thể hiện qua các giai đoạn sau:
Từ 1875 – 1914:
Trong giai đoạn này, Anh là nước có nền kinh tế phát triển mạnh nhất thế giới, chính vì vậy chủ đầu tư chủ yếu trong giai đoạn này cũng là Anh. Nước nhận đầu tư là các nước thuộc địa, trong đó có Mỹ và các thuộc địa của Anh. Nông nghiệp, mỏ, đường sắt, công nghiệp chế biến là những lĩnh vực đầu tư được chú trọng nhằm tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng cho quá trình khai thác nguyên, nhiên vật liệu tại các nước thuộc địa về phục vụ cho chính quốc. Nguồn vồn đầu tư chưa nhiều.
Từ 1919 – 1939:
Trong giai đoạn này, chủ đầu tư chủ yếu là các nước tư bản mạnh, trong đó vai trò của Mỹ ngày càng tăng, của Anh và các nước châu Âu khác giảm trừ Italia, tuy nhiên Anh vấn chiếm ưu thế và vẫn đứng trên Mỹ. Nước được đầu tư chủ yếu là các nước đang phát triển ( Châu Mỹ La Tinh giữ vị trí hàng đầu, Châu Á cũng trở thành khu vực có sức hấp dẫn) trên các lĩnh vực : mỏ và dầu lửa, đường sắt, dịch vụ công cộng, công nghiệp chế tạo. Nguồn vốn đâu tư đã có những bước tăng trưởng. Những lĩnh vực trên vẫn nhằm đáp ứng cho quá trình khai thác nguyên, vật liệu, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển ngày càng mạnh của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là các nước ngày càng khẳng định vai trò của mình như Mỹ và Italia.
Từ 1945 đến giữa những năm 1960:
Mỹ đã trở thành nước đứng đầu trong số những chủ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tiếp theo sau là Anh và một số nước tư bản khác. Tuy nhiên, các nước được nhận đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu là các nước phát triển ( trong đó có Châu Âu và Canada ) tập trung vào lĩnh vực mỏ và dầu lửa, đặc biệt là công nghiệp chế tạo và đẩy mạnh vào thương mại. Các nước phát triển tập trung vào những lĩnh vực này không những để cung cấp nguyên, vật liệu mà còn để chiếm lĩnh những thị trường được bảo hộ.
Từ giữa những năm 1960 đến cuối những năm 1970:
Mỹ vẫn duy trì là nước chủ đầu tư lớn nhất thế giới. Trong top đầu lúc này xuất hiện thêm Đức, Nhật Bản, hai nước này đã có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ sau hậu quả của chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là Nhật Bản với giai đoạn phát triển thần kì vào những năm 50 và 60 đã làm cho Nhật Bản cũng trở thành một trong những nước có chủ đầu tư lớn nhất trên thế giới. Ngoài ra, trong giai đoạn này đã bắt đầu có luồng vốn đáng kể xuất phát từ các nước đang phát triển. Tổng nguồn vốn đi đầu tư khá lớn. Trong giai đoạn này, các nước bắt đầu chuyển hướng sang sản xuất và kinh doanh các mặt hàng thâm dụng về vốn và kĩ thuật nên việc đầu tư vào các nước có trình độ về kĩ thuật và lao động là xu hướng chính. Chính vì vậy các nước nhận đầu tư trong giai đoạn này là các nước phát triển, trong đó Châu Âu gần như chiếm vị trí độc quyền. Các lĩnh vực đầu tư nổi bật là dầu lửa, công nghiệp chế tạo, thương mại. Động cơ của việc đầu tư là nhằm chiếm lĩnh và phát triển thị trường.
Thập kỷ 1980:
Trong giai đoạn này, vị trí nước đầu tư của Mỹ đã giảm tương đối vì Nhật Bản ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế thế giới, trong giai đoạn này có sự xuất hiện của Pháp với vai trò của những chủ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài khá lớn. Việc đầu tư lúc này được tập trung chủ yếu vào ba trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Đó là những trung tâm rất lớn về công nghiệp, tài chính, dịch vụ. Sự phát triển của khoa học – kĩ thuật cùng với những công nghệ mới ra đời, việc sản xuất và kinh doanh giờ đây không còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên mà đòi hỏi tập trung hơn về vốn, công nghệ và trình độ. Những ngành đỏi hỏi công nghệ cao đem lại lợi nhuận vô cùng lớn, tính cạnh tranh ngày càng cao giữa các nước. Chính vì thế, nguồn vốn đầu tư trong giai đoạn này cũng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực: công nghiệp chế tạo, thương mại và dịch vụ. Các nước đầu tư trực tiếp nhiều vào các lĩnh vực này nhằm chiếm lĩnh, phát triển và bảo vệ thị trường của mình, giảm chi phí sản xuất.
Thập kỷ 1990:
Trong giai đoạn này, nước đầu tư chủ yếu vẫn là Mỹ, theo sau là các nước Nhật Bản, Anh, Đức và vẫn tập trung vào các ngành đòi hỏi công nghệ cao như công nghiệp chế tạo, các ngành thương mại và dịch vụ với mức độ cạnh tranh ngày càng lớn. Các nước phát triển đi đầu tư lẫn nhau là chủ yếu ( ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới), ngoài ra còn đầu tư vào một số nền kinh tế đang lên và có tiềm năng ở Châu Á như Singapore, Hong Kong, Hàn Quốc,…nhằm chiếm lĩnh thị trường ngày càng sâu rộng hơn nữa và tăng khả năng cạnh tranh của mỗi nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư tăng mạnh hơn với giá trị ngày càng lớn.
Tình hình vận động của FDI từ năm 2000 đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008:
Trong giai đoạn này, cùng với quá trình toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ, dòng vốn FDI ngày càng tăng và tăng lên nhiều so với các giai đoạn trước, tăng lên ở hầu hết các khu vực, các nền kinh tế. Các nước phát triển, đặc biệt là các nước vốn là chủ đầu tư FDI lớn từ trước như Anh, Mỹ, Nhật Bản, Đức… vẫn là những nước thu hút được được lượng vốn FDI lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển cũng ngày trở nên hấp dẫn hơn với các chủ đầu tư, đặc biệt là các nước thuộc khu vực Châu Á như Trung Quốc đại lục, Ấn Độ, Hong Kong, Đài Loan,…Giai đoạn này cũng là giai đoạn có sự tăng lên kỉ lục của tổng đầu tư FDI vào năm 2007, đạt 1538 tỷ USD, vượt qua con số kỉ lục cũ năm 2000. Sự gia tăng ngày càng mạnh của FDI đóng một vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới: giúp các nước phát triển mở rộng thị trường và bành trướng sức ảnh hưởng của mình nhằm chi phối hơn nữa nền kinh tế thế giới; đối với các nước đang phát triển, FDI đóng vai trò khá lớn trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm khoảng 10% tổng số vốn đầu tư cho tài sản cố định ở các nước này; sự chuyển giao công nghệ đã giúp các nước tăng trưởng kinh tế mạnh, Châu Á ngày càng trở thành điểm đầu tư hấp dẫn với, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Đồng thời, các nước đang phát triển cũng trở thành những nhà đầu tư với lượng vốn ngày càng tăng.
Các lĩnh vực đầu tư nổi bật phụ thuộc vào tình hình thực tế của từng khu vực, từng châu lục trên thế giới:
Các nước đang phát triển ở Châu Phi: tập trung chủ yếu là các lĩnh vực khai thác nguồn nhiên liệu như dầu mỏ, gas…
Các nước đang phát triển ở Nam, Đông và Đông Nam Á, Châu Đại dương: FDI tập trung vào lĩnh vực dịch vụ và công nghệ cao, FDI ra tăng lên trong các lĩnh vực khai thác nguồn lực tự nhiên.
Các nước đang phát triển ở Đông Á: FDI tăng lên trong các ngành liên quan đến năng lượng
Các nước đang phát triển ở Mỹ La Tinh và Caribean: tăng trong các lĩnh vực sử dụng nguồn lực tự nhiên và chế tạo
Các nước Trung – Đông Âu và Liên bang các quốc gia độc lập: FDI tăng nhiều vào lĩnh vực chế tạo và lĩnh vực sử dụng nguồn lực tự nhiên.
Các nước phát triển: FDI tăng lên vào tất cả các lĩnh vực từ các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao đến thương mại, dịch vụ trong tài chính – ngân hàng nhằm chiếm lĩnh thị trường, nhất là các thị trường tiêu thụ các sản phẩm đắt tiền, yêu cầu chất lượng cao.
Những đặc điểm trên được thể hiện qua các số liệu cụ thể qua từng năm của giai đoạn. Nhìn về mặt tổng thể, tổng lưu lượng vốn FDI ròng trong cả giai đoạn này tăng lên đáng kể so với 10 năm trước. Tuy nhiên, sau khi đạt mức rất cao vào năm 2000, khoảng trên 1200 tỷ USD thì vào các năm 2001 -2004 , tổng dòng chảy FDI ròng đã giảm hẳn, sau đó vào 2005, lại có mức tăng trởi lại, vượt cả năm 2000 và đạt đến đỉnh điểm vào năm 2007. Mặc dù, tổng lưu lượng FDI ròng có sự giảm sút trong các năm 2001 – 2005 nhưng tỷ trọng FDI đầu tư vào các nước đang phát triển không hề giảm xuống mà còn có xu hướng tăng lên, đến năm 2007, dòng chảy FDI vào châu Á đạt khoảng 27% trong tổng lưu lượng FDI ròng trên toàn thế giới.
Tình hình FDI năm 2000:
Theo báo cáo đầu tư FDI của UNCTAD, tổng đầu tư trực tiếp FDI vào năm 2000 tăng 18% so với năm trước, đạt mức kỷ lục 1300 tỷ USD, dòng chảy FDI này đã tăng liên tục từ năm 1991, thời kì tăng trưởng dài nhất trong vòng 30 năm. Trong ba nhóm các nền kinh tế (các nước phát triển, các nước đang phát triển , Trung và Đông Âu), các nước phát triển có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong tổng dòng vốn FDI (21% so với năm trước), vượt quá 1000 tỷ USD (hình 1). Tuy nhiên, tỷ lệ phân bổ FDI giảm xuống đối với các nước đang phát triển (hình 2) thấp nhất trong vòng một thập kỉ từ 1991 – 2000.
Hình 1: Dòng chảy FDI đi vào ( theo nhóm các nền kinh tế) giai đoạn 1990 - 2000
Hình 2: Tỷ lệ phân bổ FDI vào các nền kinh tế khác nhau giai đoạn 1990 - 2000
Các năm 2001 – 2003:
Tổng đầu tư FDI trong giai đoạn này giảm hẳn, giảm liên tiếp trong các năm 2001, 2002, 2003 xuống dưới mức chỉ còn bằng khoảng ½ tổng vốn đầu tư FDI năm 2000, cụ thể như sau:
- Năm 2001, tổng vốn đầu tư FDI giảm xuống ở hầu hết các khu vực, tổng số vốn FDI đầu tư vào các nước phát triển đã giảm dần một nửa xuống còn khoảng 500 tỷ USD, các nước đang phát triển khác cũng giảm xuống từ 240 tỷ USD xuống còn 225 tỷ USD ngoại trừ châu Phi. Dòng vốn FDI ra từ các nước phát triển cũng giảm xuống. Tại các nước Mỹ - Latinh, trong khi luồng vốn FDI đổ vào Argentina và Brazil giảm xuống thì Mexico lại thu hút nhiều vốn đầu tư vào, vượt qua cả Brazil trở thành nước được nhận đầu tư lớn nhất trong khu vực. Tại Châu Á, Ấn Độ là nước có sự gia tăng thu hút đầu tư nhưng vẫn không bù lại sự sụt giảm tại Trung Quốc và Hong Kong, tuy nhiên sự ra nhập của Trung Quốc vào WTO sẽ đem lại những ảnh hưởng mới trong những năm tiếp theo.Tại châu Phi, tổng số vốn FDI thu hút vào khu vực tăng từ 9 tỷ USD năm 2000 lên 11 tỷ USD năm 2001, với sự gia tăng của các nhà đầu tư vào Morocco và Nam Phi cho dù có sự sụt giảm đầu tư vào Ai Cập. Trong khi đó, các nước ở khu vực Trung và Đông Âu vẫn giữ được dòng vốn đi vào ổn định vào khoảng 27 tỷ USD, dòng vốn đi vào Ba Lan lại giảm trong khi đó dòng vốn đi vào Nga, Hungari, Séc tăng nhẹ.
- Vào các năm 2002, 2003, đầu tư trực tiếp FDI vào các nước phát triển tiếp tục giảm, xuống còn 460 tỷ USD vào năm 2002 – thấp chưa từng có kể từ năm 1998. Chỉ riêng Anh và Mỹ đã chiếm khoảng 54% sự sụt giảm về thu hút vốn đầu tư FDI trong năm 2002. Với vai trò là các nước được nhận đầu tư từ FDI, Mỹ đã tụt hạng từ vị trí thứ nhất xuống vị trí thứ tư. Các giao dịch xuyên quốc gia về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp (M&A) cũng tiếp tục giảm từ 7.894 giao dịch M&A, trị giá 1.144 tỷ USD vào năm 2000 xuống còn 4.493 giao dịch, trị giá 370 tỷ USD vào năm 2002. Mặc dù vậy, với việc đẩy nhanh hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Trung Quốc vẫn khẳng định sức hút đặc biệt về FDI với tổng giá trị vốn giải ngân tăng liên tục trong 4 năm vừa qua, từ 40,3 tỷ USD năm 1999 lên 52,7 tỷ USD năm 2002. Còn tại Việt Nam, cùng khoảng thời gian này, FDI giải ngân giảm từ 1,7 tỷ USD xuống 1,2 tỷ USD. Năm 2003 là năm thứ ba liên tiếp tổng FDI giảm, dòng vốn FDI vào các nước phát triển đạt mức 367 tỷ USD, thấp hơn 25 % so với năm 2002. Tại Mỹ, dòng vốn FDI vào Mỹ giảm 53%, thấp nhất trong vòng 12 năm qua. Tại Trung và Đông Âu, FDI cũng giảm từ 31 tỷ USD xuống còn 21 tỷ USD. Trong năm 2003, chỉ có các nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi là có sự tăng trưởng trong việc thu hút đầu tư FDI, tăng 9% đạt mức 172 tỷ USD.
Tổng dòng chảy FDI vào các nước ( nước nhận)
Tổng FDI đi ra ( nước đi đầu tư)
Nguyên nhân của sự sụt giảm liên tiếp trong ba năm này là:
Do hậu quả của cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 vào nước Mỹ - nền kinh tế hàng đầu thế giới nên kinh tế thế giới đã bị tác động mạnh, trong đó có FDI. Các kế hoạch đầu tư vào Mỹ - một nước là chủ đầu tư đồng thời là người đi đầu tư rất lớn trong tổng số vốn đầu tư FDI đã bị đình trệ, giảm sút, các nhà đầu tư lo ngại khi đầu tư vào Mỹ vì môi trường đầu tư vào Mỹ không còn an toàn. Từ đó dẫn đến sự giảm mạnh trong lợi nhuận của các nước đi đầu tư, kéo theo sự suy giảm trong GDP; giá cổ phiếu trên các thị trường chứng lớn tại Mỹ liên tiếp xuống hạng từ đó dẫn đến tốc độ đổi mới cơ cấu doanh nghiệp cũng như quá trình tư nhân hoá đang diễn ra chậm chạp tại nhiều nước, sự sụt giảm lớn về giá trị của các giao dịch xuyên quốc gia về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
Tác động của cuộc khủng bố 11/9 đến kế hoạch đầu tư
Từ năm 2004 đến cuối 2007:
- Năm 2004 – 2007: sau ba năm liên tiếp sụt giảm, FDI trong các năm này đã có những bước tăng trưởng mạnh. Khởi đầu với sự gia tăng của dòng vồn FDI vào ở mức tăng 2 % so với năm 2003, dòng chảy FDI vào các nước đang phát triển tăng lên 40 % đạt mức 233 tỷ USD, chiếm 36% tổng số vốn đầu tư vào của FDI, là mức cao nhất kể từ năm 1997. Tiếp đến năm 2005, tổng FDI đạt mức 916 tỷ USD, tăng 27 % so với năm 2004. Tuy nhiên con số này vẫn còn thấp hơn nhiều so với năm 2000. FDI đầu tư vào các nước phát triển đã tăng 37% so với cùng kì năm trước, Anh là nước nhận đầu tư lớn nhất trong năm này tăng 108 tỷ USD, đạt tổng số 165 tỷ USD. Ở châu Á, các nước nhận được đầu tư nhiều là Trung Quốc và Ấn Độ, ngoài ra còn có Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc. Nguyên nhân chính xuất phát từ sự phục hồi kinh tế của các đầu tàu Mỹ, Nhật Bản, cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của Ấn Độ, Trung Quốc. Ngoài ra là xu hướng gia tăng các giao dịch xuyên quốc gia mua lại và sáp nhập các công ty lớn (merger & acquisition - Q&A).
- Sau bốn năm tăng trưởng, cuối cùng vào năm 2007, tổng đầu tư FDI toàn cầu tăng 30% so với năm trước đạt mức kỷ lục 1833 tỷ USD, vượt qua cả mức kỉ lục cũ được thiết lập vào năm 2000 bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ vào nửa cuối năm 2007. Theo UNCTAD, lợi nhuận công ty tăng và luồng tiền mặt khá dồi dào đã giúp tăng giá trị các vụ sáp nhập và mua bán xuyên biên giới, hiện chiếm một bộ phận lớn trong luồng vốn FDI. Mỹ dẫn đầu về thu hút FDI, trong năm 2007, Mỹ vẫn là địa chỉ thu hút FDI nhiều nhất với 193 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2006, tuy tốc độ tăng này chậm hơn so với nhiều nước khác. Trung Quốc là nước nhận được nhiều FDI nhất trong số các nước đang phát triển với 67,3 tỷ USD, tuy giảm 3,1% so với năm 2006.
Nguồn FDI vẫn tăng ở cả ba nhóm kinh tế gồm các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như Đông Nam Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Nguồn FDI đổ vào nhóm thứ nhất tăng trong bốn năm liên tiếp, lên tới gần một nghìn tỷ USD. Khoảng 224 tỷ USD của nguồn FDI đổ vào nhóm thứ hai được dành cho các khu vực như Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và châu Đại Dương. FDI đổ vào nhóm thứ ba tăng 41% lên mức kỷ lục 98 tỷ USD. Ủy ban kinh tế Mỹ Latinh và Caribe của Liên hiệp quốc (CEPAL) đánh giá, mặc dù phải đối mặt với những biến động của thị trường tài chính quốc tế và cuộc khủng hoảng trên thị trường vay thế chấp ở Mỹ song các nước khu vực Mỹ Latinh đã hạn chế những tác động từ bên ngoài và tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế với mức tăng trưởng bình quân 5,6%; thu hút FDI 95 tỷ USD, cao nhất trong tám năm trở lại đây.
Khu vực Đông Nam Á trở nên hấp dẫn hơn đối với việc tìm kiếm hiệu quả đầu tư FDI, những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam đang có kế hoạch cải thiện đáng kể hạ tầng cơ sở của mình.
Dòng vốn FDI theo nhóm các nền kinh tế từ 2005-2007( tỷ USD)
FDI với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay:
Sơ qua về cuộc khủng hoảng kinh tế từ 2008 – 2009:
Cuối năm 2007, tình hình tài chính tại Mỹ đã có dấu hiệu của sự khủng hoảng, kéo theo việc các trung tâm tài chính khác trên thế giới cũng bất ổn theo. Đến năm 2008, khủng hoảng tài chính chính thức bùng nổ tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính hiện nay tới đầu tư FDI của thế giới:
Theo các báo cáo đầu tư FDI của UNCTAD, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính đã khiến dòng vốn FDI đi vào các nước trên toàn cầu giảm 14% từ 1979 tỷ USD ( FDI inflow) vào năm 2007 xuống còn 1697 tỷ USD vào năm 2008. Tình trạng này vẫn tiếp tục diễn ra vào năm 2009, theo khảo sát với 96 quốc gia vào quý I năm 2009, dòng vốn FDI đổ vào giảm xuống dưới 44% so với cùng kì năm 2008. Sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế này lên FDI có sự khác biệt giữa ba nhóm nền kinh tế : tại các nước phát triển, nơi bắt đầu và chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng thì dòng vốn FDI đi vào giảm mạnh, trong khi tăng tại các nước đang phát triển và các nước thuộc Trung và Đông Âu. Tuy nhiên sự khác biệt này cũng nhanh chóng bị dừng lại vào cuối năm 2008 đầu năm 2009.
Dữ liệu cho năm 2008 và 2009 chỉ ra rằng đối với nhiều nước phát triển, dòng vốn FDI đã giảm, chủ yếu là do kết quả của cuộc khủng hoảng thanh khoản trong thị trường tiền tệ và nợ nần, ước tính sơ bộ cho thấy một sự suy giảm của khoảng 33% so với dòng chảy trong năm 2007 cho nhóm này. FDI đầu tư vào Phần Lan, Đức, Hungary, Ý, và Anh Quốc đều giảm đi (bảng 1), ngay cả khi so sánh với năm 2006. Sự sụt giảm thu nhập của các nước phát triển, các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) và sự suy giảm một trong các khoản vay hợp vốn ngân hàng đã hạn chế tài chính cho đầu tư. Sự sụt giảm trong giao dịch mua lại thừa hưởng cũng làm trì trệ việc sáp nhập xuyên biên giới và mua lại (M & As). Mua bán qua biên giới M & A doanh số bán hàng ở các nước đang phát triển đã giảm cường độ tương tự (33%) vì ước tính dòng vốn FDI trong năm 2008 giảm (bảng 1).
Trong nền kinh tế đang phát triển, mặc dù cũng chịu những tác động tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng tốc độ tăng trưởng thu hút FDI để phát triển quốc gia vẫn tăng nhẹ trong năm 2008, khoảng 4%. Dòng chảy sang Tây Á giảm đáng kể (hơn 20%), sau các mức đăng ký kỷ lục năm ngoái, do có sự sụt giảm trong nhu cầu sử dụng dầu, chi phí tăng cao. Ngược lại, dòng chảy FDI vào châu Mỹ La tinh và vùng Caribê được dự kiến sẽ cho thấy khả năng phục hồi đáng kể, đã tăng 13% trong năm 2008, một phần là do kết quả của sự gia tăng trong dòng chảy FDI tới Nam Mỹ, tuy nhiên vẫn chữa đựng những rủi ro suy giảm cao. FDI chảy vào các nền kinh tế chuyển đổi của Đông Nam Châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) được ước tính đã duy trì xu hướng đi lên của họ bất chấp khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, và xung đột khu vực. Trong số các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi, lớn nhất (Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ, và Trung Quốc) đã trải qua một sự gia tăng FDI trong năm 2008. Tương tự như vậy, giao dịch qua biên giới M & A trong nước đang phát triển cũng tăng 16%, với phần lớn là tăng vốn đăng ký của châu Phi và châu Á (bảng 1). Trong ngắn hạn, các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế FDI vẫn chiếm ưu thế và tiếp tục làm giảm hơn nữa tổng vốn FDI trong năm 2009 ở mọi nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhân tố tích cực đã và đang xảy ra cho thấy một sự hồi sinh của dòng vốn đầu tư quốc tế. Những yếu tố này bao gồm các cơ hội đầu tư dựa trên tài sản giá rẻ và tái cơ cấu ngành công nghiệp, số lượng tương đối lớn các nguồn lực tài chính sẵn có ở các nước đang phát triển và tiền mặt sẵn có ở nước xuất khẩu dầu mỏ, sự mở rộng nhanh chóng của các hoạt động như ngành công nghiệp năng lượng mới và các khả năng phục hồi tương đối của các công ty quốc tế.
Bảng 1: Dòng vốn FDI vào và số liệu về buôn bán xuyên biên giới theo vùng và nền kinh tể 2007 – 2008
IV. Tìm hiểu sơ qua về báo cáo đầu tư FDI 2010 của UNCTAD và dự đoán xu thế phát triển của FDI trong các năm tới:
Về báo cáo đầu tư trực tiếp ra nước ngoài FDI 2010:
* Xu hướng FDI và cái nhìn toàn cảnh về nó:
FDI toàn cầu đã có những dấu hiệu của sự phục hồi nhưng còn khiêm tốn vào nửa đầu năm 2010, nhưng đây là tia hy vọng cho sự phục hồi lớn hơn nữa về FDI ít nhất là trong ngắn hạn. UNCTAD dự kiến luồng vốn toàn FDI cầu đạt khoảng 1200 tỷ USD hết 2010, dự kiến tăng đạt 1300 đến 1500 tỷ USD vào năm 2011, hướng tới 1600 - 2000 tỷ USD vào năm 2012. Tuy nhiên, những triển vọng này của FDI còn mang đầy rủi ro và bất trắc, bao gồm cả sự mong manh của sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động mua bán và sáp nhập qua biên giới ( M & A)của các nước cũng như các tập đoàn xuyên quốc gia, làm giảm đi 77% các hợp đồng M&A so với năm 2008. Hoạt động này vẫn đạt ở mức thấp vào năm 2009, khoảng 250 tỷ USD, tuy nhiên đã tăng lên 36 % vào năm tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm trước.Các nền kinh tế đang chuyển đổi phát triển và thu hút được một nửa của luồng vốn FDI toàn cầu, và họ cũng đầu tư một phần vào FDI toàn cầu. Họ đang dẫn đầu trong công cuộc phục hồi FDI. Hầu hết các khu vực đều được kì vọng sẽ tăng trưởng dòng vốn FDI trong năm 2010: Châu Phi đang chứng kiến sự nổi lên của các nguồn mới của FDI. Nâng cấp nền công nghiệp thông qua FDI ở châu Á đang lan rộng đến nhiều quốc gia.
Chỉ số FDI toàn cầu hàng quý từ năm 2000 đến quý I năm 2010
Tỷ lệ buôn bán biên giới và các lĩnh vực đầu tư lớn 2007 - 2010
Tình hình mua bán và sáp nhập qua biên giới và các dự án mới từ năm 2005 đến 5/2010
* Chính sách khuyến khích thu hút FDI
Một sự phân đôi trong xu hướng chính sách đầu tư đang nổi lên do ảnh hưởng đồng thời của nhu cầu về tự do hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư hơn nữa và việc theo đuổi các mục tiêu chính sách công khác. Gói kích cầu kinh tế và viện trợ Nhà nước cũng tác động đến đầu tư nước ngoài nhưng sự bảo hộ đầu tư không diễn ra quá lớn. Các hiệp định đầu tư quốc tế ngày càng mở rộng, với hơn 5.900 điều ước quốc tế hiện nay (trung bình bốn điều ước quốc tế đã ký kết một tuần trong năm 2009) cũng có tác động lớn trong chính sách đầu tư riêng của từng nước trong việc cải tạo môi trường đầu tư cho phù hợp với các hiệp định
* Đầu tư vào các nền kinh tế ít carbon :
Sáng kiến toàn cầu, chẳng hạn như đầu tư vào nông nghiệp, cải cách hệ thống tài chính toàn cầu, và giảm nhẹ biến đổi khí hậu đang ngày càng có ảnh hưởng trực tiếp việc đầu tư. Đối với các nước đang phát triển, việc đầu tư vào các nền kinh tế ít các bon giúp nâng cấp năng lực sản xuất của họ và khả năng cạnh tranh xuất khẩu, giúp họ quá trình chuyển đổi dần dần sang một nền kinh tế ít carbon. Tuy nhiên, đầu tư này cũng mang đến cả rủi ro về