Tiểu luận Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

BỐ CỤC ĐỀ TÀI

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Các quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

1. Các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

1.1. Những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

1.2. Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

2. Các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

2.1. Thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính

2.2. Thủ tục thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

II. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

1. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

1.1. Hợp lí

1.2. Chưa hợp lí

2. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

2.1. Hợp lí

2.2. Chưa hợp lí

III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

1. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

2. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2288 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều trường hợp đã xảy ra nhưng tranh luận xung quanh trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện đồng thời nhiều vi phạm hành chính một lúc và mức phạt tiền tổng hợp đối với các cá nhân, tổ chức này vượt quá mức mà pháp luật quy định cho thẩm quyền của người xử phạt. Về nguyên tắc, nếu tất cả các vi phạm đó đều thuộc thẩm quyền xử phạt của người có thẩm quyền thì dù mức phạt tổng hợp có lớn hơn mức quy định cho thẩm quyền của người xử phạt, vụ việc đó vẫn thuộc thẩm quyền xử phạt của người này. Trường hợp nếu có một vi phạm hành chính mà mức phạt tiền được pháp luật quy định vượt quá thẩm quyền của người xử phạt thì vụ việc đó phải chuyển cho người khác có thẩm quyền xử phạt. 1.2. Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Để khắc phục việc thiếu tính rõ ràng trong các quy định về thẩm quyền xử phạt như đã phân tích ở trên và bảo đảm cho việc thực hiện đúng thẩm quyền xử phạt, Điều 42 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2008) quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể là: - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương. - Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các điều từ Điều 31 đến Điều 40d của Pháp lệnh này có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý. - Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, thì việc xử phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện. - Thẩm quyền xử phạt của những người được quy định tại các điều từ Điều 28 đến Điều 40d của Pháp lệnh này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính. Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. - Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt được xác định theo nguyên tắc sau đây: + Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó; + Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt; + Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm. 2. Các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính 2.1. Thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính Theo quy định của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính hiện hành thì việc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo thủ tục sau đây: Khi phát hiện vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức thì người có thẩm quyền xử phạt phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức. Thủ tục đơn giản: nếu xét thấy vi phạm của cá nhân, tổ chức chỉ bị phạt ở mức cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định xử phạt tại chỗ mà không cần phải lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính. Thủ tục xử phạt có lập biên bản: nếu thấy rằng vi phạm đó của tổ chức, cá nhân bị phạt tiền từ mức 200.000 đồng trở lên thì người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính. Biên bản này phải có chứ kí của người vi phạm hành chính và của người lập biên bản. Nếu có người làm chứng hoặc người bị thiệt hại thì họ cùng kí vào biên bản. Nếu họ không kí thì phải ghi rõ lí do vào biên bản. Biên bản lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm một bản, nếu vụ vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người đó phải gửi biên bản tới người có thẩm quyền xử phạt. Thời hạn ra quyết định xử phạt là mười ngày kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính, đối với vụ vi phạm có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày. Trong trường hợp xét thấy cần them thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn, việc gia hạn phải bằng văn bản. Thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày. Trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính, khi xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan xử lí hình sự có thẩm quyền giải quyết. Pháp luật nghiêm cấm việc giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lí hành chính. 2.2. Thủ tục thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày kí, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác. Quyết định này phải được gửi cho tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính và cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ra quyết định. Tổ chức, cá nhân bị xử phạt phải tự nguyện thi hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cá nhân, tổ chức bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt hoặc nộp tại kho bạc nhà nước. Hết thời hạn tự nguyện thi hành quyết định xử phạt mà tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt buộc tổ chức, cá nhân đó phải thi hành, bao gồm: - Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản tại ngân hàng; - Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; - Áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác để thi hành quyết định xử phạt. II. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Hợp lí - So với quy định của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 và Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (khi chưa được sửa đổi, bổ sung năm 2008) thì số lượng các chức danh thuộc các cơ quan quản lí hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và chuyên ngành từ cấp trung ương đến cấp cơ sở có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính lớn hơn nhiều và phạm vi thẩm quyền cũng được mở rộng hơn nhiều. Ví dụ như, so với Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (khi chưa được sửa đổi, bổ sung năm 2008) thì thẩm quyền phạt tiền của thủ trưởng các cơ quan chuyên ngành (thuế, hải quan, kiểm lâm, quản lí thị trường, thanh tra chuyên ngành…) đều được nâng lên nhiều trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) để tránh tình trạng vụ việc vượt thẩm quyền xử lí của cơ quan chuyên ngành cơ sở bị đẩy sang Ủy ban nhân dân cùng cấp quá nhiều, dẫn đến tình trạng tồn đọng, chậm trễ trong việc giải quyết xử phạt vi phạm hành chính. - Bên cạnh đó, vấn đề về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã chú ý đến sự phân cấp cho cơ sở để bảo đảm tình nhanh nhạy, kịp thời, hiệu quả của xử phạt vi phạm hành chính. - Ngoài ra, để bảo đảm tính linh hoạt và sát với yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) còn quy định thẩm quyền xử phạt của các chức danh trên cơ sở căn cứ vào vị trí của cấp hành chính trong tổ chức bộ máy nhà nước, kết hợp hài hòa với lĩnh vực quản lí nhà nước và phạm vi, chức năng hoạt động của cơ quan có thẩm quyền xử phạt đó trong thực tiễn. Quy định này bảo đảm cho các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phát huy tối đa vai trò, vị trí, thẩm quyền của mình trong đấu tranh chống vi phạm hành chính đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời tránh tình trạng lạm quyền hoặc ngược lại, có thể làm hạn chế hoặc bó tay cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi thực thi công vụ. - Có thể nói rằng, quy định của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã có nhưng điểm đổi mới và tiến bộ hơn nhiều so với các quy định về vấn đề này trong các Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính trước đây, trong thực tiễn áp dụng cũng đã phát huy được tác dụng, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác đấu tranh, phòng chống vi phạm hành chính, góp phần đắc lực vào công cuộc bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm môi trường lành mạnh cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, đồng thời nâng cao vị thế, uy tín và vai trò của nhà nước trong việc xử lí các vi phạm pháp luật về quản lí hành chính ở Việt Nam. Chưa hợp lí Tuy nhiên, trên thực tiễn thi hành, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) thời gian qua đã bộc lộ những bất cập cúa các quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: - Điểm bất cập lớn nhất và thể hiện phổ biến, rõ ràng nhất là các quy định về thẩm quyền xử phạt của các chức danh trong pháp lệnh, nhất là các chức danh ở cấp cơ sở quá thấp, dẫn đến rất nhiều vụ việc vi phạm hành chính không thể xử phạt được ngay tại cấp cơ sở mà phải chuyển lên trên mặc dù tính chất và mức độ vi phạm của vụ việc cũng không có gì là lớn hoặc phức tạp. Ví dụ như nhiều vụ vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ, về an nhinh, trật tự an toàn xã hội (như vi phạm về trật tự công cộng, vi phạm quy định giữ gìn vệ sinh chung, về giữ gìn sự yên tĩnh chung, vi phạm quy định về quản lí hộ khẩu, hộ tịch, mua bán, sử dụng rượu bia…) có tình tiết đơn giản, rõ ràng nhưng mức phạt tiền tối đa đối với hành vi đó trên 200.000 đồng là phải chuyển lên cấp trên có thẩm quyền xử phạt của người trực tiếp thi hành công vụ. Trong tình hình lạm phát, giá cả liên tục tăng nhanh từng ngày từng giờ như hiện nay thì với mức phạt tiền trên 200.000 đồng mà đã phải chuyển lên cấp trên thì quả là chưa hợp lí, chưa theo sát với tình hình thực tế. Điểm bất cập này không chỉ xảy ra ở cấp cơ sở mà còn xảy ra đối với cấp trên của cấp cơ sở (ví dụ như đối với cấp trạm trưởng, đội trưởng, cấp xã, phường, thị trấn…) dẫn đến tình trạng ách tắc, vượt quá thời hạn xử phạt theo quy định, đồng thời kéo theo nhiều vi phạm khác liên quan như thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm, thu giữ, bảo quản, xử lí tang vật, phương tiện vi phạm bị tịch thu… - Điểm bất cập khác trực tiếp liên quan đến thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là quy định hiện hành của pháp lệnh về thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với các chức danh có thẩm quyền xử phạt. Theo quy định của pháp lệnh tại Điều 12 khoản 3 thì các biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung nhằm bảo đảm xử lí vi phạm hành chính được toàn diện, triệt để. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng hành vi vi phạm hành chính cụ thể mà các Nghị định của Chính phủ khi quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước sẽ quy định về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả kèm theo các hình thức xử phạt đối với từng vi phạm hành chính. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, tại chương IV của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính hiện hành quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các chức danh có thẩm quyền xử phạt, lại quy định cả thẩm quyền áp dụng biên pháp khắc phục hậu quả đối với từng chức danh đó. Theo quy định tại các điều này thì có những chức danh chỉ có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt mà không có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nên đối với các vi phạm hành chính dù hình thức xử phạt có thuộc thẩm quyền của các chức danh đó nhưng lại quy định áp dụng biên pháp khắc phục hậu quả thì cũng phải chuyển lên cấp trên (chẳng hạn như chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội biên phòng, nhân viên thuế vụ…). Một số chức danh được Pháp lệnh quy định chỉ có thẩm quyền áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả, còn một số biện pháp thì chức danh đó không có thẩm quyền. Ví dụ như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã có quyền áp dụng biện pháp “buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra” nhưng không có quyền áp dụng biện pháp “buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép”, mặc dù Điều 12 khoản 3 của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính hiện hành quy định các biện pháp này chung tại một điểm và nối với nhau bằng một chữ “hoặc” tức là có tính chất lựa chọn. Quy định này dẫn đến tình trạng bất cập trong thực tiễn là đối với các vụ vi phạm hành chính trong xây dựng mà có liên quan đến “tháo dỡ” là cấp xã thường làm thủ tục, hồ sơ báo cáo lên cấp huyện mà không tổ chức buộc thóa dỡ để tránh tình trạng “lạm quyền”. Thực trạng này dẫn đến hậu quả là việc giải quyết các vụ vi phạm hành chính về xây dựng ngày càng kém hiệu quả, để dây dưa kéo dài, tính chất vụ việc vi phạm ngày càng nghiêm trọng do các cấp dây dưa, đùn đẩy, lung túng trong quá trình giải quyết trong khi cá nhân, tổ chức vi phạm lại tranh thủ thời gian để đạt mục đích vi phạm của mình. - Một điểm bất cập nữa cũng liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là đối với các biện pháp khắc phục hậu quả không được pháp lệnh quy định cụ thể mà lại giao cho người có thẩm quyền quyết định áp dụng theo quy định của Chính phủ (theo Điều 12 khoản 3 điểm đ của pháp lệnh) thì tại chương IV của pháp lệnh chỉ quy định thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả này cho chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh (theo Điều 30 khoản 5). Điểm bất cập này dẫn đến một thực tế là các Nghị định của Chính phủ bắt buộc phải “xé rào” để quy định thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả này cho cả các chức danh có thẩm quyền xử phạt khác, vì nếu chỉ quy định chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh mới có quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả khác do người có thẩm quyền quyết định tại Nghị định áp dụng theo quy định của Chính phủ thì văn bản không có tính khả thi, bởi như vậy thì tất cả các hành vi vi phạm hành chính có quy định biện pháp khắc phục hậu quả khác đều phải chuyển lên chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh để xử phạt. - Điểm bất cập khác cũng gây ra nhiều “phiền toái” không kém trong quá trình thực thi các quy định của Pháp lệnh là việc quy định “cứng” các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tại các điều khoản của chương IV của Pháp lệnh. Các quy định này dẫn đến sự lung túng và không thống nhất ý kiến giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng và trình Chính phủ ban hành các Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lí nhà nước. Trong quá trình hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, về các chức danh là việc bình thường. Tuy nhiên đối với vấn đề thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thì điều này lại làm nảy sinh những lúng túng do các quy định hiện hành về thẩm quyền xử phạt chưa thể hiện tinh thần linh hoạt, mềm dẻo trong vấn đề này. Vấn đề ủy quyền xử phạt vi phạm hành chính cũng là vấn đề đang có nhiều ý kiến hiện nay. Các quy định hiện hành về ủy quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thực tế thi hành đang gặp nhiều khó khăn và thiếu tính khả thi vì bị cho là không phù hợp với thực tiễn quản lí nhà nước, còn mang nặng tính lí luận. Đánh giá tính hợp lí của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính 2.1. Hợp lí - Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính theo Pháp lệnh năm 2002 (và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008) được sửa đổi theo hướng đơn giản, rõ ràng, tạo thuận lợi cho nhân dâ nhưng cũng không làm bó tay các cơ quan có thẩm quyền xử lí, pháp luật quy định cơ chế giám sát chặt chẽ để bảo đảm ngăn chặn và xử lí kịp thời các vi phạm, hành vi tiêu cực của người có thẩm quyền xử lí, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính được rút ngắn đáng kể so với Pháp lệnh năm 1995 (từ 5 ngày lên 10 ngày) đã góp phần giảm bớt phiền hà và phức tạp có thể nảy sinh trong thời gian xem xét hồ sơ cũng như để tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền xử lí. - Thời hạn tự nguyện thi hành quyết đinh xử phạt là 10 ngày (gấp đôi so với Pháp lệnh năm 1995). Sở dĩ pháp luật kéo dài thời gian như trên là vi trong rất nhiều trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt ở ngoài địa bàn cư trú hoặc địa bàn đóng trụ sở hoặc trong trường hợp bị phạt với một khoản tiền rất lớn do vậy họ cần có thời gian chuẩn bị tiền để nộp phạt. Đây là quy định tạo thuận lợi cho đối tượng vi phạm hành chính có điều kiện để tự nguyện thi hành quyết định xử phạt. - Trong một số trường hợp mà cá nhân vi phạm hành chính chưa thể thi hành quyết định xử phạt không phải do họ chây lì mà do chưa có điều kiện để thi hành, theo Pháp lệnh năm 2002, Điều 65 thì cá nhân bị phạt tiền từ 500.000 đồng trở lên có thể được tạm hoãn thi hành quyết định xử phạt nếu đang gặp khó khăn về kinh tế với lí do chính đáng, thời hạn tạm hoãn là không quá 3 tháng kể từ ngày ra quyết định tạm hoãn. - Mức phạt tiền tối đa là 500.000.000 đồng đã khắc phục được tình trạng quy định mức phạt tiền quá cao trong các văn bản quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trước đây, bảo đảm nguyên tắc là trong cùng lĩnh vực quản lí nhà nước thì mức phạt tiền tối đa do pháp luật quy định đối với một hành vi vi phạm hành chính không vượt quá mức phạt tiền tối đa được Bộ luật hình sự quy định đối với một hành vi phạm tội. - Theo Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính hiện hành thì cá nhân, tổ chức bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt hoặc nộp tại kho bạc nhà nước. Quy định này đã tránh được những khó khăn, phiền hà cho tổ chức, cá nhân bị xử phạt và cả người có thẩm quyền xử phạt đồng thời nó cũng hạn chế được các tiêu cực có thể xảy ra trong xử phạt vi phạm hành chính. So với Pháp lệnh năm 1995, Pháp lệnh năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh năm 2008 đã có nhiều quy định cụ thể hơn về thủ tục xử phạt, bổ sung thêm một số quy định mới để đáp ứng yêu cầu   thực tế như: Điều 65 quy định thủ tục về hoãn chấp hành quyết định phạt tiền; Điều 68 quy định về chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành. Nói cách khác, những quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính đã thể hiện rõ hơn tính minh bạch của pháp luật, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cải cách thủ tục hành chính. - Khoản 1 Điều 55 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 được sửa đổi, bổ sung như sau: “người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có trách nhiệm lập biên bản đối với vi phạm mà mình phát hiện. Trong trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì phải chuyển tới ngay người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt”. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 cũng bổ sung trường hợp người vi phạm cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không có mặt tại địa điểm xảy ra vi phạm thì biên bản được lập xong phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người làm chứng. - Khoản 1, Điều 61 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính (2008) đã được sửa đổi theo hướng phù hợp hơn: đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do người có thẩm quyền của cơ quan trung ương hoặc của cơ quan cấp tỉnh ra quyết định tịch thu thì giao cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh, nơi cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu đóng trụ sở để bán đấu giá. Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do người có thẩm quyền của cơ quan cấp huyện trở xuống ra quyết định tịch thu thì thành lập Hội đồng bán đấu giá của cấp huyện để bán đấu giá. Việc bán đấu giá tang vật, phương tiện bị tịch thu được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá. Đối với tang vật, phương tiện bị tịch thu mà không bán được thì cơ quan của người có thẩm quyền ra quyết định tịch thu thành lập Hội đồng để thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật. Tiền thu được từ bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, sau khi trừ các chi phí theo quy định của pháp luật phải được nộp vào ngân sách nhà nước qua tài sản mở tại kho bạc nhà nước. 2.2. Chưa hợp lí - Cho đến nay, Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính vẫn duy trì hai loại thủ tục xử phạt: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập biên bản; tuy nhiên mức tiền xử phạt theo thủ tục đơn giản đã được nâng từ 20.000 đồng (Pháp lệnh năm 1995) lên 200.000 đồng (Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008). Việc nâng mức tiền phạt theo thủ tục đơn giản là cần thiết để khắc phục tình trạng vụ việc vi phạm phải dồn lên cấp trên giải quyết. Tuy nhiên, mức tiền được xử phạt là 200.000 đồng vẫn còn thấp, nhiều vụ vi phạm chưa thể xử phạt theo thủ tục này. Thông thường thủ tục đơn giản được áp dụng đối với vi phạm nhỏ, rõ ràng, không có tình tiết phức tạp, cần phải xác minh thêm như vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược chiều. Đối với những trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay, cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết nhanh chóng, trật tự quản lý cũng được nhanh chóng khôi phục. Do vậy, vẫn cần duy trì thủ tục đơn giản khi xây dựng Luật xử lí vi phạm hành chính vì tính hiệu quả của nó trong việc xử phạt đối với những vi phạm nhỏ, đơn giản trong một số lĩnh vực như trật tự, an toàn giao thông đô thị, vệ sinh đường phố. - Về nội dung của biên bản: một số quy định của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP (hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002) và mẫu biên bản để xử phạt (ban hành kèm theo Nghị định) lại quá dài, mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến kết quả xử lý vi phạm. Trong nhiều trường hợp, người có trách nhiệm xử lý đã chuyển vụ việc về giải quyết theo thủ tục đơn giản với mức phạt thấp hơn nhiều để tránh thủ tục lập biên bản, dẫn đến lọt nhiều hành vi vi phạm không được xử lý thoả đáng. Qua thực tiễn thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, nhiều Bộ, ngành, địa phương cho rằng, các mẫu quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm, mẫu quyết định xử phạt, mẫu biên bản đều rườm rà, chưa phù hợp với thực tế; biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, theo quy định phải có hai người làm chứng, trên thực tế áp dụng rất khó, đề nghị chỉ nên quy định một người làm chứng. Mẫu biên bản vi phạm hành chính chưa hợp lý, vừa thừa, vừa thiếu, cụ thể: phần nội dung về điều, khoản quy định hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân chỉ in một dòng nên khi có hai hành vi vi phạm thì phải lập hai biên bản. - Quyết định xử phạt, nội dung của quyết định xử phạt: quy định tại Điều 56 của Pháp lệnh năm 2002. Có ý kiến cho rằng, thời hạn gia hạn 30 ngày là quá ít vì nhiều vụ việc cần phải có thời gian để xác minh, thu thập tài liệu liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa bàn hoặc một số đối tượng vi phạm hành chính sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đã bỏ đi khỏi địa phương trong thời gian dài, gây khó khăn cho việc xử lý. Một khó khăn khi thực thi Miều 56 là việc Pháp lệnh và Nghị định số 134/2003/NĐ-CP chưa quy định cụ thể thủ trưởng trực tiếp có quyền gia hạn thêm thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm. Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp tỉnh cần gia hạn thời hạn ban hành quyết định xử phạt thì cần xin phép Thủ tướng Chính phủ hay Bộ trưởng? Đây là vấn đề không phức tạp nhưng cũng cần được xem xét và quy định rõ khi nghiên cứu, xây dựng Luật xử lí vi phạm hành chính. III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính Cần nghiên cứu các quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính theo hướng “mở”, tức là không nên quy định cứng các chức danh có thẩm quyền xử phạt mà cần tiến hành rà soát, đánh giá tổng thể hệ thống các cơ quan quản lí hành chính, nghiên cứu quy định một cơ chế sao cho có thể linh hoạt bổ sung hay thay đổi chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi cần thiết, phù hợp với tình thần cải cách bộ máy nhà nước để đáp ứng kịp thời thực tế quản lí hành chính nhà nước đang có nhiều biến động nhanh chóng như hiện nay, trên cơ sở tăng cường và hoàn thiện cơ chế hoạt động kiểm tra giám sát nhằm tránh tình trạng lạm quyền trong xử phạt vi phạm hành chính. Cần tiếp tục quy định về thẩm quyền xử phạt cho các chức danh theo hướng tiếp tục phân cấp mạnh mẽ hơn, trao quyền nhiều hơn và toàn diện hơn cho cơ sở . Cụ thể, cần phải tăng thẩm quyền phạt tiền cho các chức danh trực tiếp thực hiện công vụ, bổ sung thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả cho các chức danh một cách đồng bộ, thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cũng cần được sửa đổi, bổ sung sao cho bảo đảm tính khả thi. Cần nghiên cứu, quy định thẩm quyền xử phạt cho các chức danh trên cơ sở phải bảo đảm tính hợp lí, hài hòa, đồng bộ và phù hợp với vị trí, vai trò của các chức danh đó trong sự phân công, phân cấp của bộ máy nhà nước. Ví dụ, quy định thẩm quyền xử phạt của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã cần phải tính toán nâng mức thẩm quyền phạt tiền sao cho tương ứng với vai trò của cơ quan có thẩm quyền chung ở cơ sở; thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm cũng cần quy định với trị giá lớn hơn mới có thể phát huy vai trò của cấp xã trong bối cảnh biến động giá cả, kinh tế như hiện nay; bên cạnh đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá tính hợp lí của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính - một số kiện nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về th.doc