Tiểu luận Tính tất yếu khách quan của sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta

Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp , nên hệ thống ngân hàng , tín dụng , thuế , giá cả , quĩ bảo hiểm . với tư cách là công cụ để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế hàng hoá , còn thấp kém . Đất nước mới bắt đầu xây dựng pháp luật về kinh tế , nhưng lại chưa đồng bộ ; xã hội chưa quen tập quán chấp hành luật pháp trong hoạt động kinh doanh . Bộ máy nhà nước hiểu biết ít về cơ chế thị trường , thiếu các chiến lược kinh tế mang tính khoa học và thực tiễn còn lúng túng trong cách quản lý kinh tế vĩ mô . Trong điều kiện đó , phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước là xu hướng vận động khách quan ở nước ta trước mắt lẫn lâu dài . Chính vì thế mà Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sụ quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đây nhà nước “ của dân , do dân , vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất bảo đảm tính định hướng XHCN “ nhờ kết quả 10 năm đổi mới, vai trò quản lý của Nhà nước đã được tăng cường . Bằng các công cụ pháp luật , kế hoạch , các thiết chế về tài chính , tiền tệ và những phương tiện vật chất khác, Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng hoá ; ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường .

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6855 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tính tất yếu khách quan của sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đại hội VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại. - Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên lục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của Xã hội đạt mức rất thấp, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. - Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. - Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường, Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. - Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. - Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền. Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần túy. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình”, vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đối với nướcc ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng. I - Kinh tế kế hoạch hoá tập trung những ưu điểm và nhược điểm 1- ưu điểm Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vậ chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ, ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời nó cũng thích hợp với kinh tế thời chiến lúc đó. 2 - Nhược điểm. Sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế xã hội đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra rất nhiều hậu qủa xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã rập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là: - Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên qui mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng một gia tăng. - Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gían tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển. - Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển nhanh từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp , tự túc sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường : Đặc điểm này phản ánh thực trạng thấp kém của kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường . biểu hiện : + Sản xuất phân tán kỹ thuật lao động thủ công là chủ yếu . + Công nghệ lạc hậu năng suất thấp không có khả năng cạnh tranh + Các mối quan hệ kinh tế ít do đó thị trường eo hẹp + Kết cấu hạ tầng thấp kém cả về hạ tầng vật chất , xã hội thấp kém . Trong một thời gian dài chúng ta lại thực hiện cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nó đã làm triệt tiêu những điều kiện tiền đề của nền kinh tế hàng hoá , tạo ra một bộ máy quản lý quan liêu cồng kềnh không cần năng lực kinh doanh như vậy nó đã kìm hãm phát triển của sản xuất làm nền kinh tế trì trệ đời sống khó khăn . Vì vậy chuyển nhanh kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường . II . Nền kinh tế nước ta phát triển trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường + Nền kinh tế hàng hoá bao gồm 6 thành phần kinh tế đó là : Kinh tế nhà nước , Kinh tế hợp tác , Kinh tế tư bản nhà nước , kinh tế cá thể , Kinh tế tư bản tư nhân , Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . + Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém , đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp . Trong nền kinh tế hàng hoá chịu sự tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng , do vậy lao động dịch vụ trong ngành có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ . Trong điều kiện đó , các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng , có tác dụng làm cho kinh tế hàng hoá và dịch vụ phát triển , cơ cấu công - nông nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo định hướng cơ cấu kinh tế . - Nó đảm bảo cho mọi người , mọi doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào cũng đều được tự do kinh doanh theo pháp luật , được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp . - Các chủ thể kinh tế đều được hoạt động kinh doanh theo cơ cấu tự chủ , hợp tác , cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật . - Trong điều kiện hiện nay LLSX mang tính quốc tế hoá cao do cuộc cách mạng khao học hiện đại trên thế giới phát triển hết sức mạnh mẽ làm cho các nước phụ thuộc vào nhau trong quá trình phát triển kinh tế vì vậy để phát triển kinh tế các quốc gia mở rộng quan hệ kinh tế với nhau đó là xu thế tất yếu Việt nam cũng không nằm ngoài xu thế đó . - Đa dạng đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế nhưng với nguyên tắc bình đẳng độc lập hai bên đều có lợi . Tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau . Mở rộng ki nh tế nước ngoài đó là phát triển ngoại thương : Liên doanh liên kết với nước ngoài Hợp tác nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật Hợp tác lao động dịch vụ vv... Nền kinh tế hàng hoá nước ta vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN Nếu kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có mặt tích cực nhưng lại không ít những mặt khuyết tật nó đối lập với bản chất mà xã hội chúng ta đang xây dựng . Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại vừa hợp tác vừa cạnh tranh nên nền kinh tế nhiều thành phần dễ bị chệch hướng XHCH mặt khác cơ chế thị trường lại có mặt khuyết tật do đó để đảm bảo tính định hướng XHCN phải tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước . Phần II . II - tính tất yếu phải có các nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN. 1 - Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế Nhà Nước Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần rồi chuyển lên kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy nội dung định hướng của XHCN là gì ? Đây là vần đề rất phức tạp, theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam thì định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính sau: Một là: hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua luật pháp, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tầm quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. nếu ở tầm vi mô, các doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vi mô. Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu quản lý nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Hai là: Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái được chủ động bảo vệ và phát triển qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành đúng đắn luật pháp chính sách môi trường của nhà nước trong từng thời kỳ. Ba là: Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN phải là nền kinh tế phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ kém phát triển tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thấp dẫn tới mức thu nhập bình quân đầu người thấp không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN đây là yêu cầu rất quan trọng của định hướng XHCN, đành rằng nếu chỉ có nội dung này thì chưa đủ bởi vì đã có nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế XHCN. Bốn là: Định hướng XHCN phải được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta, đặc biệt là cơ cấu thành phần kinh tế. Để giữ được định hướng XHCN, “Kinh tế quốc doanh phải nắm được những bộ phận then chốt có vị trí chi phối nền kinh tế có tác dụng điều tiết thị trường và giá cả ở mức độ nhất định”. Ngoài ra Nhà nước cũng phải đầu tư phát triển các doanh nghiệp cùng các thành phần kinh tế khác nhằm tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tập thể hợp tác xã phải được phát triển theo nguyên tắc tự nguyện dưới dạng cổ phần, liên doanh. Kinh tế tư nhân được phát triển bình đẳng và có thể đan xen vào các thành phần kinh tế khác. Để có được cơ cấu kinh tế như vậy cần phải giải quyết những vấn đề phân phối thu nhập. Ngoài tiền lương, tiền công người lao động còn được hưởng phân phối từ các nguồn hữu sản của họ. Cơ cấu kinh tế mới được hình thành một phần do tự điều chỉnh của nền kinh tế, một phần do nhà nước điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo ra được môi trường cạnh tranh và huy động được tối đa tiềm lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế xã hội. Năm là: Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Đây là một nội dung quan trọng không thể thiếu được đảm bảo định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đánh giá tổng quát và rút kinh nghiệm đổi mới ở nước ta như sau: “...cùng với sự kích thích sản xuất phát triển kinh tế thị trường cũng là một môi trường thuận lợi để nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn . Để hạn chế và khắc phục được những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của XHCN, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp , kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác”. Sáu là: Nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà hợp với nền kinh tế quốc tế. Với xu hướng phát triển kinh tế mở rộng, nội dung trên có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý và lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác nó làm cho nền kinh tế từ đó có điều kiện tiếp thu các yếu tố khoa học kỹ thuật hiện đại thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng hơn. 2 - Những thực trạng và giải pháp cơ bản để tăng cường sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta . +Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , kinh tế nhà nước với bản chất vốn có của nó, lại nắm giữu các ngành , lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên trở thành nhân tố kinh tế bảo đảm cho kinh tế hàng hoá của các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Cần ý thức rằng tính hiện thực của vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác, khi nó sớm đổi mới cơ chế quản lý theo hướng năng suất , chất lượng và hiệu quả đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế . Sự phát triển kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực , đem lại sự phát triển lực lượng sản xuất , tăng trưởng kinh tế cao ( đây là mặt chủ yếu ) của nó; mặt khác, nó không tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như : Phá sản , khủng hoảng , phân hoá giàu nghèo , lừa đảo , giả dối , áp bức bất công , tàn phá môi trường ... Những khuyết tật này đòi hỏi phải có sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước . Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp , nên hệ thống ngân hàng , tín dụng , thuế , giá cả , quĩ bảo hiểm ... với tư cách là công cụ để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế hàng hoá , còn thấp kém . Đất nước mới bắt đầu xây dựng pháp luật về kinh tế , nhưng lại chưa đồng bộ ; xã hội chưa quen tập quán chấp hành luật pháp trong hoạt động kinh doanh . Bộ máy nhà nước hiểu biết ít về cơ chế thị trường , thiếu các chiến lược kinh tế mang tính khoa học và thực tiễn còn lúng túng trong cách quản lý kinh tế vĩ mô . Trong điều kiện đó , phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước là xu hướng vận động khách quan ở nước ta trước mắt lẫn lâu dài . Chính vì thế mà Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sụ quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đây nhà nước “ của dân , do dân , vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất bảo đảm tính định hướng XHCN “ nhờ kết quả 10 năm đổi mới, vai trò quản lý của Nhà nước đã được tăng cường . Bằng các công cụ pháp luật , kế hoạch , các thiết chế về tài chính , tiền tệ và những phương tiện vật chất khác, Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng hoá ; ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường . III. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta 1. Điều kiện cho sự phát triển kinh tế hàng hoá . + Một là , nhà nước cần sớm tạo ra sự ổn định về chính trị , kinh tế , xã hội . Có ổn định về chính trị mới có thể ổn định và phát triển kinh tế , xã hội , tất nhiên không phải tiến hành một cách biệt lập thiếu đồng bộ . Nói ổn định về chính trị là nói đến chính quyền . Nhà nước phải có đủ uy tín đối với các doanh nghiệp và nhân dân . Uy tín này thể hiện ở tính đúng đắn của đường lối , chính sách và trình độ điều hành vĩ mô của Nhà nước . ổn định về kinh tế có nội dung rất phong phú , song yêu cầu chủ yếu và trước tiên là sự ổn định về tài chính , tiền tệ và sự kiểm soát được lạm phát . Vì nếu như không vậy , thì toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó, biến dạng , không kích thích được đầu tư , tiêu cực phát sinh , tâm lý xã hội phức tạp . Điều quan trọng nhất của sự ổn định xã hội là tạo được niềm tin , niềm hy vọng trong nhân dân . Chẳng hạn niềm tin ở chỗ , ai làm nhiều, làm tốt bằng tài năng của mình theo khuôn khổ pháp luật , thì thu nhập cao . Niềm tin đó là động lực quan trọng cho phép khai thác phát huy được tinh thần dân tộc có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế cần thiết trong nền kinh tế hàng hoá . + Hai là , xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội . Việc đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và người nước ngoài được tiến hành thuận lợi và trở lên hấp dẫn hay không , phụ thuộc nhiều nhân tố , nhưng trước hết phụ thuộc vào trình độ phát triển của các kết cấu hạ tầng . Kết cấu hạ tầng vật chất bao gồm giao thông vận tải , điện nước , thông tin bưu điện ... Còn kết cấu hạ tầng xã hội chủ yếu và quan trọng nhất là hệ thống tài chính , ngân hàng , thương mại giáo dục , bảo vệ sức khoẻ , bảo hiểm ... Cần ý thức rằng, một trong những tính quy luật có liên quan đến chiến lược đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội , phải đi trước một bước so với đầu tư kinh doanh trực tiếp . Đầu tư cho kết cấu vật chất xã hội đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi vốn chậm , hoặc thu hồi một phần , do vậy thường do nhà nước đảm nhiệm . Nền kinh tế hàng hoá ở các nước tư bản phát triển , giúp họ sớm có ý thức về tính quy luật này so với các nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta . Chính sự non kém về kết cấu hạ tầng là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện luật đầu tư nước ngoài , mặc dù ở nước ta đã ban hành sớm và với những điều khoản hấp dẫn . + Ba là , cần có hệ thống pháp luật và bộ máy thực hiện sao cho đủ sức chống làm ăn phi pháp; đồng thời chống được sự quan liêu , cửa quyền , độc quyền và đặc quyền đặc lợi, khi nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần . + Bốn là , tạo được những tâm lý , tập quán có tính xã hội phù hợp và có lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hoá . Ví dụ , tập quán mọi nhà doanh nghiệp , mọi người dân được tự do kinh doanh và biết làm giàu ngoài những điều khoản luật cấm ; thói quen tâm lý hoạt động mua bán theo cơ chế thị trường , xa lạ với cơ chế bao cấp , và cũng xa lạ với thói quen cam chịu khổ hạnh . + Năm là , cần có các nhà quản lý kinh doanh giỏi thích nghi với cơ chế thị trường . Điều kiện này rất quan trọng , có thể nói là quyết định đến hiệu quả đầu tư , hiệu quả kinh doanh , tăng sự hấp dẫn cho người hoặc tổ chức của nước ngoài muốn liên doanh với nước ta . Các điều kiện nói trên là những điều kiện rất cần thiết quyết định phần lớn kết quả của quá trình chuyển biến nền kinh tế hàng hoá nước ta vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Không cầu toàn , không chờ đợi , mà vừa làm vừa tạo dựng , vừa củng cố phát triển và hoàn thiện các điều kiện tiền đề . Vì thế , nó phải là một quá trình . 2. Phương hướng và biện pháp mấu chốt để phát triển kinh tế hàng hoá Một là , thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần , theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Với các hình thức sở hữu đa dạng như : Sở hữu nhà nước , sở hữu tập thể , sở hữu hỗn hợp , sở hữu các thể , sở hữu tư bản tư nhân ... Qua đó , và bằng cách đó , cho phép sử dụng hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế có lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hoá ; tạo điều kiện để Nhà nước dành vốn đầu tư cho những ngành thuộc cơ sở hạ tầng rất cần thiết , phù hợp với điều kiện thu nhập quốc dân còn rất hạn hẹp ở nước ta . Hai là , sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng nắm ngành khâu , mặt hàng trọng yếu , chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh , tự chủ về mọi mặt , đủ sức đứng vững giành thắng lợi trong cạnh tranh , để kinh doanh có hiệu quả . Bằng cách đó , mà giữ phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh đối với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế hàng hoá . Ba là , sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản nhà nước , nhừm lợi dụng sức mạnh hỗn hợp giữa tư bản trong và ngoài nước với Nhà nước về các mặt vốn , cồng nghệ và tài năng quản lý để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta . Bốn là , đẩy mạnh nhận công lao động và hiệp tác lao động theo hướng : chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá sản xuất kinh doanh ; tăng cường và phát triển ngành phi sản xuất vật chất ( ngành kinh tế dịch vụ ) ; coi trọng lao động trí tuệ : theo kịp sự biến đổi nhanh chóng các ngành , mặt hàng mũi nhọn và có tương lai . Chú trọng xu hướng phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế dựa vào thế mạnh sẵn có cuả nhau để phát triển kinh tế hàng hoá . Năm là , đẩy mạnh sự CNH,HĐH , coi trọng việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ của loài người ( nhất là cần coi trọng khoa học công nghệ ứng dụng ) . Bằng cách đó , tạo điều kiện đưa nhanh kinh tế hàng hoá ở nước ta vừa phát triển theo chiều rộng và sâu , nhất là chiều sâu , nhằm tằng khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta trên thị trường quốc tê và khu vực . Sáu là , xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại . Đặc điểm của thị trường này là phong phú và đa dạng về hình thức thể loại ( thị trường tư liệu sản xuất , tư liệu tiêu dùng , sức lao động , khoa học kỹ thuật , tiền tệ , vốn , chứng khoán vv...) ; bao gồm nhiều lực lượng tham gia phát triển thông suốt không biệt lập giữa các vùng , giữa các điựa phương , giữa trong nước và quốc tế . ở đây , cần chú ý mấy điểm : xây dựng chiến lược thị trường hướng ngoại , nhưng phải lấy thị trường trong nước làm cơ sở , phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở thế mạnh và loại thế so sánh . Bởi lẽ , người ta chỉ xuất những sản phẩm vốn là thế mạnh của họ và thế yếu của quốc tế , ngược lại người ta chỉ nhập những sản phẩm là thế mạnh của quốc tế nhưng lại là thế yếu của họ . Một nguyên tắc cần chú ý có liên quan đến cung cầu và thị trường là : người ta bán hoặc xuất cái mà thị trường trong và ngoài nước cần , chứ không phải bán cái gì mà họ có . Bảy là , thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hoá . Muốn vậy , phải mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hoá về hình thức , đa phương hoá về nguồn ; phải quán triệt nguyên tắc : hai bên cùng có lợi , không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị xã hội . Rõ ràng , xây dựng , và phát triển nền kinh tế hàng hoá ở nước ta là quá trình vừa có tính cấp bách , trước mắt , vừa là cơ bản lâu dài . Trong quá trình đó , không tránh khỏi những khó khăn do điểm xuất phát thấp của nền kinh tế nước ta gây ra , song cũng có những thuận lợi nhất định cần được khai thác . Đó là , đất nước ta có dân số đông , thuận lợi cho việc phát triển nhu cầu và thị trường trong nước . Môi trường và con người Việt Nam năng động , có khả năng tiếp nhận cơ chế thị trường . Nước ta nằn trong vùng châu A - Thái Bình Dương - Vùng trung tâm văn minh của loài người đang được di chuyển đến - vùng kinh tế năng động nhất của thế giới hiện nay . Đảng và nhà Nước ta kiên quyết đổi mới theo hướng có lợi cho sự phát tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50070.doc
Tài liệu liên quan