Tiểu luận Tổ chức và quy trình thẩm định văn bản quy phạm pháp luật

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu

Phần 1: Khái quát về công tác thẩm định văn bản QPPL

1. Khái niệm thẩm định văn bản QPPL

2. Vai trò của công tác thẩm định văn bản QPPL

3. Cơ quan thẩm định văn bản QPPL

4. Đối tượng, phạm vi nội dung thẩm định văn bản QPPL

Phần 2: Tổ chức và quy trình thẩm định văn bản QPPL

1. Hồ sơ thẩm định

2. Tiếp nhận hồ sơ thẩm định

3. Phân công thẩm định

4. Tổ chức thẩm định

5. Tổ chức thẩm định trong trường hợp thành lập Hội đồng thẩm định

6. Chuẩn bị báo cáo thẩm định và nội dung báo cáo thẩm định

7. Ký, gửi báo cáo thẩm định và lưu trữ hồ sơ thẩm định

8. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thẩm định

9. Kinh phí hỗ trợ thẩm dịnh và chế độ chi tiêu tài chính

Kết luận

 

 

 

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tổ chức và quy trình thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n: Xác định xem văn bản đã thật sự cần thiết ban hành hay chưa là vấn đề đầu tiên phải thẩm định bởi nó ảnh hưởng đến sự tồn tại của văn bản. Những tiêu chí được dùng để đánh giá sự cần thiết này là: - Yêu cầu quản lý nhà nước: công tác quản lý nhà nước đã thật sự đòi hỏi phải có văn bản để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý chưa. Ví dụ, cần thiết ban hành Nghị định của Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra chuyên ngành du lịch để đáp ứng yêu cầu thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch. - Yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoặc đối với vấn đề mà văn bản đó điều chỉnh. - Cũng có khi, văn bản cần được ban hành để quy định chi tiết thi hành hoặc hướng dẫn thi hành những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên đã ban hành. Ví dụ, Chính phủ ban hành nghị định để quy định chi tiết thi hành luật hoặc Bộ trưởng ban hành thông tư để hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ. Văn bản thẩm định phải thể hiện sự tán thành hoặc không tán thành về việc soạn thảo, ban hành văn bản tại thời điểm đó với lý do hợp pháp và hợp lý. Dưới đây là một ví dụ: 4.2.2. Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản Xem xét đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản nghĩa là xác định văn bản điều chỉnh đối với đối tượng nào? Phạm vi điều chỉnh của văn bản giới hạn ở những quan hệ xã hội nào? Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng đến chất lượng của văn bản. Tiêu chí để xem xét đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản có phù hợp với văn bản hay không cần dựa trên các yếu tố sau đây: - Vấn đề, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh; - Hình thức văn bản được soạn thảo. Trên cơ sở cân nhắc, đánh giá về sự rộng, hẹp, về tính đa dạng hay phức tạp của vấn đề, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh để kết luận đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản đã hợp lý chưa. 4.2.3. Về sự phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của báo cáo thẩm định bởi nó bảo đảm cho hoạt động thể chế hoá đường lối của Đảng được đúng hướng và đúng với tinh thần các chủ trương chính sách của Đảng. Tiêu chí để đánh giá văn bản có phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng hay không cần căn cứ vào các văn kiện của Đảng (ví dụ Văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo ý kiến kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, v.v.), tập trung vào những nội dung mà văn kiện đề cập có liên quan trực tiếp đến vấn đề mà văn bản điều chỉnh. Từ đó có sự đối chiếu, so sánh để kết luận nội dung văn bản có phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng hay không. 4.2.4. Về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật Để thẩm định về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của nội dung văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thông pháp luật hiện hành cần xem xét, kiểm tra xem nội dung của văn bản được thẩm định có bảo đảm các yêu cầu sau hay không: Một là, đối chiếu xem xét các quy định thuộc nội dung văn bản cần thẩm định có phù hợp với các quy định của Hiến pháp hiện hành hay không. Trong trường hợp Hiến pháp không có quy định trực tiếp về vấn đề mà văn bản quy định thì cần xem xét, cân nhắc xem nội dung Văn bản có phù hợp với tinh thần của Hiến pháp hay không. Ví dụ, khi thẩm định Văn bản Nghị định quy định về trình tự, thủ tục và chế độ cai nghịên bắt buộc đối với người nghiện ma tuý thì cần khẳng định nội dung cuả văn bản phù hợp với Điều 61 Hiến pháp năm 1992 là "Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm". Hai là, cần kiểm tra, xem xét nội dung của văn bản có bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc ngang bằng có liên quan đến văn bản cần thẩm định hay không. Ví dụ, khi thẩm định Văn bản Nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải thì cần kiểm tra, xem xét nội dung của Văn bản có phù hợp với quy định của Pháp lệnh Thanh tra ngày 1/4/1990; Nghị định số 224/HĐBT ngày 30/6/1990 về tổ chức của hệ thống thanh tra nhà nước và biện pháp bảo đảm hoạt động thanh tra; Nghị định số 191/HĐBT ngày 18/6/1991 của Hội đồng bộ trưởng ban hành Quy chế thanh tra viên và sử dụng cộng tác viên thanh tra; Luật khiếu nại, tố cáo ngày 1/12/1998, Luật Giao thông đường bộ ngày 29/6/2001, v.v. Bảo đảm tính thống nhất của nội dung văn bản quy phạm pháp luật với hệ thống pháp luật hiện hành là bảo đảm sự phù hợp của các quy định hiện hành với quy định trong văn bản, không có tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa nội dung của Văn bản với các quy định hiện hành. Các quy định của văn bản và các quy định trong các văn bản hiện hành có liên quan tạo thành một thể thống nhất. Điều đó cũng có nghĩa bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động xây dựng pháp luật. Bảo đảm tính đồng bộ của nội dung văn bản với hệ thống pháp luật hiện hành nghĩa là các quy định của văn bản và các quy định hiện hành có sự ăn khớp nhịp nhàng và phù hợp với nhau, không xẩy ra tình trạng mặc dù giữa các quy định này không mâu thuẫn, chồng chéo nhưng có sự vênh váo, không ăn khớp giữa các quy định. 4.2.5. Về tính khả thi của văn bản Tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật được thẩm định có thể kết luận qua việc xem xét các khía cạnh sau đây của văn bản: Một là, nội dung các quy định của văn bản phải bảo đảm tính cụ thể, chi tiết để tổ chức thực hiện hoặc áp dụng được trong thực tiễn; Hai là, sự phù hợp của nội dung văn bản với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại, nghĩa là nội dung các quy định có thể thực hiện được trong điều kiện đời sống sinh hoạt và ý thức xã hội mà quy phạm pháp luật đó được áp dụng. Ví dụ, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với người đi xe đạp vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao thông với mức phạt tiền là 10.000 đồng đối với hành vi đi xe đạp trên hè phố, trong vườn hoa hoặc trong công viên (Điều 8 khoản 1 điểm a Nghị định số 39/NĐ-CP ngày 13/7/2001) là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại. Một ví dụ khác: Nghị định số ... /NĐ-CP ngày ... /12/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/CP ngày 03/6/1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại đã bổ sung hành vi " buôn bán hàng hoá có nhãn rách nát, không còn nguyên vẹn hoặc nhãn mờ không đọc được nội dung " hoặc " buôn bán hàng hoá trình bầy không đúng quy định về kích thước, vị trí, cách ghi, ngôn ngữ ". Những vi phạm này khá phổ biến trong thực tiễn mà thực tế những người vi phạm lại hoàn toàn chưa ý thức được đó là hành vi vi phạm pháp luật nên việc xử phạt khó thực hiện đưọc trong thực tế. Ba là, sự phù hợp của các quy định trong văn bản với ý thức pháp luật của đối tượng áp dụng văn bản; Bốn là, phù hợp với khả năng tổ chức thực hiện các quy định thuộc nội dung văn bản của các cơ quan có trách nhiệm thực thi các quy định đó; Năm là, việc kế thừa kinh nghiệm thực thi các quy định của pháp luật về những vấn đề có liên quan đến nội dung điều chỉnh của văn bản. 4.2.6. Về kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý Đây là một trong những nội dung thẩm định cần được tiến hành cẩn thận, cụ thể, chi tiết, bảo đảm cho việc nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý của các cơ quan hữu quan sau này được chính xác, thoả đáng, góp phần nâng cao chất lượng văn bản được thẩm định. Để đánh giá kỹ thuật soạn thảo của một văn bản quy phạm pháp luật có bảo đảm phù hợp với nội dung văn bản điều chỉnh và yêu cầu theo quy định hay không cần căn cứ vào quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các quy định tại Điều 5, Điều 9, Điều 27 quy định cụ thể một số nội dung trực tiếp liên quan đến kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, kinh nghiệm thực tiễn của việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá về kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý sử dụng trong văn bản. Ví dụ, thông thường, cách hành văn khi diễn đạt nội dung các quy phạm trong các điều, khoản của các văn bản luật, pháp lệnh bao giờ cũng ngắn gọn, cô đọng, dứt khoát, trong khi đó, đối với các loại văn bản như nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ thì cách hành văn ít mang tính mệnh lệnh mà có thêm tính chất diễn giải, hướng dẫn trong đó. Nội dung thẩm định, đánh giá về kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bao gồm việc nhận xét, đánh giá về kỹ thuật sắp xếp, bố cục phần, chương, mục, điều, khoản, điểm ... của văn bản; đánh giá về kỹ thuật diễn đạt nội dung các quy phạm trong văn bản, việc chuyển tải đầy đủ và toàn diện chính sách pháp lý, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề mà văn bản điều chỉnh. Bên cạnh đó, một nội dung đánh giá không thể thiếu là ngôn ngữ mà văn bản sử dụng để chuyển tải nội dung các quy phạm đã bảo đảm tính "chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải đơn giản, dễ hiểu" như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi hay chưa. Thêm nữa, văn bản có sử dụng thuật ngữ chuyên môn hay không. Nếu văn bản có sử dụng thuật ngữ chuyên môn mà những thuật ngữ này cần xác định rõ về nội dung thì văn bản đã có định nghĩa trong văn bản như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định hay chưa ... 4.2.7. Về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và phương án xử lý (nếu có) Đây là một nội dung quan trọng của báo cáo thẩm định văn bản quy phạm pháp luật. Đối với văn bản luật, pháp lệnh trình Chính phủ xem xét, thông qua để trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành theo thẩm quyền và đối với văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thì được coi là ý kiến khác nhau nếu vấn đề thuộc nội dung văn bản mà trong quá trình soạn thảo hoặc lấy ý kiến các Bộ, ngành hữu quan có ý kiến không thống nhất. Mặc dù cơ quan chủ trì soạn thảo đã tổ chức trao đổi, tham khảo ý kiến hoặc trực tiếp làm việc với đại diện các cơ quan hữu quan về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau đó nhưng vẫn không đi đến thống nhất. Bởi vậy, trong Tờ trình Chính phủ cũng như hồ sơ gửi Bộ Tư pháp thẩm định, thì những vấn đề đó được coi là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Trường hợp văn bản luật, pháp lệnh Chính phủ đã thông qua và chính thức trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội ban hành theo thẩm quyền thì trong Tờ trình, Chính phủ cũng có thể nêu những vấn đề thuộc nội dung văn bản luật, pháp lệnh mà trong quá trình soạn thảo Chính phủ thấy còn có nhiều ý kiến chưa thống nhất, cần xin ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội. ở đây, chúng tôi chỉ đề cập trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trình Chính phủ và gửi Bộ Tư pháp thẩm định mà trong Tờ trình Chính phủ có đề cập đến những vấn đề thuộc nội dung văn bản còn có ý kiến khác nhau. Đối với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau nêu trong Tờ trình thì cơ quan thẩm định phải xem xét, cân nhắc và phát biểu quan điểm của mình về những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau đó trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các quan điểm, lập luận của cơ quan soạn thảo và của các bên có ý kiến khác, đồng thời cơ quan thẩm định cũng nêu rõ quan điểm riêng của mình cùng với phương án giải quyết đối với những vấn đề khác nhau đó. Phần II TỔ CHỨC VÀ QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Hồ sơ thẩm định: 1.1. Hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì soạn thảo gửi đến Bộ Tư pháp để thẩm định bao gồm: a) Công văn yêu cầu thẩm định; b) Tờ trình Chính phủ về văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ký và đóng dấu; c) Văn bản cuối cùng được cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định trình Chính phủ xem xét; d) Bản tập hợp ý kiến của các Bộ, ngành về văn bản đó; đ) Bản thuyết trình chi tiết về văn bản và văn bản hướng dẫn thi hành (nếu có). Số lượng tài liệu nói tại các điểm b, c, d và đ trên đây là 10 bộ. 1.2. Hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ do các Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì soạn thảo gửi đến Bộ Tư pháp để xin ý kiến bao gồm Công văn, Tờ trình, Văn bản và bản tập hợp ý kiến như đã nêu tại các điểm a, b, c và d mục 2.1.1. Số lượng tài liệu gửi Bộ Tư pháp là 5 bộ. 1.3. Hồ sơ thẩm định đối với văn bản luật, pháp lệnh do cơ quan khác, tổ chức, đại biểu Quốc hội soạn thảo và được Văn phòng Chính phủ gửi Bộ Tư pháp để thẩm định bao gồm Công văn yêu cầu thẩm định, văn bản luật, văn bản pháp lệnh, Tờ trình và tài liệu có liên quan (nếu có). 2. Tiếp nhận hồ sơ Văn phòng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ thẩm định. Khi nhận được hồ sơ gửi đến, bộ phận Văn thư của Văn phòng phải ghi rõ số đăng ký, ngày nhận vào hồ sơ và Sổ theo dõi Công văn đến và chuyển cho bộ phận Tổng hợp để kiểm tra tính hợp lệ, vào "Sổ theo dõi hồ sơ thẩm định" và lập Phiếu chỉ đạo thẩm định, tham gia ý kiến trình Lãnh đạo Bộ cùng hồ sơ để phân công thẩm định. Thời gian từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi trình Lãnh đạo Bộ không được quá 4 giờ làm việc.   Trong trường hợp qua kiểm tra phát hiện hồ sơ thiếu một trong các tài liệu bắt buộc nói tại mục 2.1 trên đây, thì Chánh Văn phòng Bộ thừa lệnh Bộ trưởng ký công văn đề nghị cơ quan có Công văn yêu cầu thẩm định, tham gia ý kiến bổ sung hồ sơ. Về nguyên tắc, Văn phòng Bộ không trình Lãnh đạo Bộ xem xét phân công thẩm định khi hồ sơ chưa được bổ sung đầy đủ tài liệu theo quy định. 3. Phân công thẩm định Việc phân công đơn vị thuộc Bộ Tư pháp thẩm định văn bản được thực hiện theo nguyên tắc đơn vị quản lý, phụ trách lĩnh vực nào thì chủ trì thẩm định văn bản có nội dung liên quan đến lĩnh vực đó. Trong trường hợp văn bản có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực thì một đơn vị chủ trì thẩm định và các đơn vị khác có liên quan phối hợp thẩm định. Lãnh đạo Bộ Tư pháp phân công thẩm định trong thời hạn chậm nhất là 8 giờ làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ thẩm định do Văn phòng trình. Sau khi Lãnh đạo Bộ phân công, thư ký của Bộ trưởng hoặc chuyên viên giúp việc của Thứ trưởng phải chuyển lại hồ sơ và Phiếu chỉ đạo thẩm định cho Văn phòng Bộ để ghi vào Sổ theo dõi và gửi hồ sơ cùng với Phiếu chỉ đạo thẩm định cho các đơn vị được phân công thẩm định. Thời gian từ khi Lãnh đạo Bộ phân công đến khi đơn vị được phân công thẩm định nhận hồ sơ không được quá 4 giờ làm việc. Khi nhận hồ sơ, đại diện đơn vị được phân công thẩm định ký nhận vào Sổ theo dõi của Văn phòng. Trong trường hợp đơn vị được giao chủ trì thẩm định thấy sự phân công thẩm định chưa phù hợp hoặc cần có sự phối hợp thẩm định thì thủ trưởng đơn vị đề đạt ý kiến để Lãnh đạo Bộ điều chỉnh lại việc phân công thẩm định. Trong trường hợp cần thiết, thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm định báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ về việc mời các luật gia, các nhà khoa học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn thuộc nội dung văn bản tham gia thẩm định.   4. Tổ chức thẩm định 4.1. Nghiên cứu văn bản Sau khi nhận được hồ sơ thẩm định do Văn phòng Bộ chuyển, thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm định có trách nhiệm phân công một cán bộ lãnh đạo đơn vị và nhóm chuyên viên nghiên cứu, chuẩn bị thẩm định, trong đó một chuyên viên đã trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản được cử làm Báo cáo viên. Đối với văn bản còn có nội dung chưa rõ ràng hoặc có nhiều vấn đề còn có ý kiến khác nhau, thì thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm định chủ động liên hệ với cơ quan chủ trì soạn thảo để yêu cầu thuyết trình về văn bản hoặc cung cấp thêm thông tin và tài liệu có liên quan đến văn bản; trong trường hợp cần thiết, thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm định đề nghị Lãnh đạo Bộ tổ chức cuộc họp liên tịch với sự tham gia của đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo và đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan khác để thảo luận, trao đổi ý kiến về những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau trước khi làm báo cáo thẩm định. Thủ trưởng đơn vị được phân công phối hợp thẩm định có trách nhiệm tổ chức việc nghiên cứu văn bản trong đơn vị mình và gửi ý kiến tham gia bằng văn bản cho đơn vị chủ trì thẩm định trong thời hạn chậm nhất là 5 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ thẩm định; đối với văn bản luật, pháp lệnh nói tại điểm 2.1.3. thì thời hạn gửi ý kiến chậm nhất là 3 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ thẩm định; đối với văn bản nói tại điểm 2.1.2. thì thời hạn gửi ý kiến chậm nhất là 2 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ (xem các Phụ lục 12, 13, 14). 4.2. Cuộc họp thẩm định Đối với các văn bản nói tại điểm 2.1.1. và điểm 2.1.3., Lãnh đạo đơn vị được phân công chủ trì thẩm định tổ chức cuộc họp thẩm định với sự tham gia của các chuyên viên được phân công nghiên cứu chuẩn bị thẩm định. Tuỳ theo tính chất của văn bản đang được thẩm định, lãnh đạo đơn vị có thể triệu tập các chuyên viên khác thuộc nhóm nghiên cứu hoặc toàn thể đơn vị để tham gia cuộc họp thẩm định. Trong trường hợp có nhiều đơn vị được phân công thẩm định hoặc có các luật gia, nhà khoa học, chuyên gia tham gia thẩm định thì đơn vị chủ trì thẩm định có thể mời đại diện của các đơn vị phối hợp thẩm định, các luật gia, nhà khoa học và chuyên gia tham gia cuộc họp. Cuộc họp thẩm định được tiến hành theo trình tự: a) Lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định tuyên bố lý do cuộc họp; b) Báo cáo viên cung cấp những thông tin liên quan tới văn bản, phát biểu ý kiến của mình về những vấn đề thuộc nội dung thẩm định; c) Các thành viên tham dự cuộc họp thảo luận và phát biểu ý kiến, tập trung vào những vấn đề thuộc nội dung thẩm định; d) Lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định kết luận. Báo cáo viên có trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp thẩm định. Biên bản phải ghi đầy đủ các ý kiến phát biểu tại cuộc họp và được lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định ký. Trong trường hợp đơn vị phối hợp thẩm định có ý kiến khác với ý kiến của đơn vị chủ trì thẩm định thì ý kiến đó cũng phải được ghi rõ trong biên bản. Đối với văn bản nói tại điểm 1.2. thì trong trường hợp cần thiết, thủ trưởng đơn vị chủ trì tham gia ý kiến có thể tổ chức cuộc họp với đại diện các đơn vị được phân công phối hợp tham gia ý kiến để thảo luận những vấn đề thuộc nội dung văn bản.   5. Tổ chức thẩm định trong trường hợp thành lập Hội đồng thẩm định 5.1. Những trường hợp cần thành lập Hội đồng thẩm định Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể các trường hợp cần thành lập Hội đồng thẩm định để thẩm định văn bản luật, pháp lệnh, văn bản nghị quyết, nghị định. Đây là vấn đề thuộc quyền quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp "trong trường hợp cần thiết". Thực tế cho đến nay cũng chưa có văn bản nào được thẩm định theo trình tự này. Căn cứ vào mục đích của quy định về thành lập Hội đồng thẩm định và trên cơ sở thực tiễn yêu cầu của công tác thẩm định từ khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực đến nay, có thể thấy trong trường hợp thẩm định các văn bản sau đây cần xem xét thực hiện theo trình tự thành lập Hội đồng thẩm định: - Các văn bản luật lớn có tính chất pháp điển hoá, điều chỉnh tổng thể các quyền và nghĩa vụ cơ bản hiến định của công dân; - Các văn bản quy định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, có phạm vi điều chỉnh rộng thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; - Các văn bản quy định nhiều nội dung mới, phức tạp để triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối quan trọng của Đảng mà các cơ quan có liên quan còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau; - Các văn bản quy định các vấn đề mới, có tính chất thí điểm do đó có những nội dung không bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành. 5.2. Thành phần, cơ chế hoạt động của Hội đồng thẩm định Thành phần Hội đồng thẩm định được xác định trong Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Hội đồng, bao gồm Chủ tịch Hội đồng, các thành viên Hội đồng và Báo cáo viên là một cán bộ cấp Vụ của đơn vị thuộc Bộ Tư pháp được phân công chủ trì hoặc tham gia soạn thảo văn bản (dưới đây gọi là đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định). Thành phần Hội đồng thẩm định có thể bao gồm đại diện các cơ quan, tổ chức khác ngoài Bộ Tư pháp, các luật gia, các nhà khoa học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn thuộc nội dung văn bản. Đối với văn bản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì thành phần Hội đồng thẩm định phải có đại diện của Văn phòng Chính phủ và đại diện của các Bộ, ngành hữu quan. Văn phòng Bộ Tư pháp có trách nhiệm sao gửi quyết định thành lập Hội đồng thẩm định cùng hồ sơ gửi thẩm định tới từng thành viên của Hội đồng. Hội đồng thẩm định hoạt động theo nguyên tắc các thành viên Hội đồng độc lập nghiên cứu, Hội đồng thảo luận tập thể về những vấn đề thuộc nội dung thẩm định và ý kiến thẩm định là ý kiến được đa số thành viên Hội đồng tán thành. 5.3. Cuộc họp Hội đồng thẩm định Cuộc họp thẩm định văn bản do Chủ tịch Hội đồng thẩm định triệu tập và chủ toạ. Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo được mời tham dự cuộc họp thẩm định của Hội đồng thẩm định. Cuộc họp thẩm định được tiến hành theo trình tự: a) Chủ tịch Hội đồng thẩm định tuyên bố lý do cuộc họp; b) Báo cáo viên cung cấp những thông tin có liên quan tới văn bản và nêu những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; c) Thành viên Hội đồng thảo luận, tập trung vào những vấn đề thuộc nội dung thẩm định; d) Hội đồng biểu quyết từng loại vấn đề được nêu trong mẫu báo cáo thẩm định. Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Hội đồng thẩm định có thể yêu cầu đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình thêm về các vấn đề thuộc nội dung văn bản mà các thành viên Hội đồng thẩm định quan tâm. Báo cáo viên có trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp của Hội đồng thẩm định. Biên bản phải ghi đầy đủ các ý kiến phát biểu tại cuộc họp và được Chủ tịch Hội đồng thẩm định ký. Những ý kiến được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng có mặt tán thành thì được coi là ý kiến của Hội đồng; những vấn đề chưa được Hội đồng nhất trí cũng phải được ghi rõ trong biên bản cuộc họp. 6. Chuẩn bị báo cáo thẩm định và nội dung báo cáo thẩm định 6.1. Đối với văn bản nói tại điểm 1.1 và điểm 1.3, trên cơ sở biên bản cuộc họp thẩm định hoặc biên bản cuộc họp Hội đồng thẩm định, Báo cáo viên có trách nhiệm chuẩn bị văn bản báo cáo thẩm định, trong đó nêu rõ ý kiến về từng vấn đề như sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; sự phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành và tính khả thi của văn bản; sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; hình thức, tên gọi, cơ cấu, bố cục của văn bản; kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và phương án xử lý (nếu có) và những ý kiến về các nội dung cụ thể khác của văn bản.   Trong quá trình chuẩn bị văn bản báo cáo thẩm định, nếu có vấn đề vướng mắc thì lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định phải kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp. Trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ thẩm định, đơn vị chủ trì thẩm định, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định có trách nhiệm hoàn thành văn bản báo cáo thẩm định; đối với văn bản luật, pháp lệnh nói tại điểm 1.3. thì thời hạn hoàn thành văn bản báo cáo thẩm định chậm nhất là 6 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ thẩm định. Khi trình văn bản báo cáo thẩm định, thủ trưởng đơn vị chủ trì thẩm định, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định phải ký "nháy" vào văn bản báo cáo thẩm định và báo cáo với Lãnh đạo Bộ về ý kiến của các đơn vị phối hợp thẩm định mà không được tiếp thu, ý kiến của các thành viên thiểu số Hội đồng thẩm định. Trong trường hợp văn bản được thẩm định theo trình tự thành lập Hội đồng thẩm định thì hồ sơ trình Lãnh đạo Bộ phải bao gồm cả biên bản cuộc họp Hội đồng thẩm định. 2.6.2. Đối với văn bản nói tại điểm 1.2, đơn vị chủ trì tham gia ý kiến có trách nhiệm chuẩn bị công văn góp ý, trong đó nêu rõ ý kiến về sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp luật, tính khả thi của văn bản và ý kiến về các nội dung cụ thể của văn bản.   Công văn góp ý được thủ trưởng đơn vị chủ trì tham gia ý kiến ký "nháy" và trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp xem xét trong thời hạn chậm nhất là 4 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ văn bản. 7. Ký, gửi báo cáo thẩm định và lưu giữ hồ sơ thẩm định 1. Lãnh đạo Bộ Tư pháp xem xét văn bản báo cáo thẩm định và cho ý kiến chỉ đạo về những vấn đề cần chỉnh lý. Trong trường hợp cần thiết, Lãnh đạo Bộ làm việc trực tiếp với lãnh đạo, chuyên viên của đơn vị được phân công thẩm định, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định. Báo cáo thẩm định được Lãnh đạo Bộ ký trong thời hạn chậm nhất là ba ngày, kể từ khi đơn vị chủ trì thẩm định trình; đối với văn bản luật, pháp lệnh nói tại điểm 1.3. thì thời hạn Lãnh đạo Bộ ký báo cáo thẩm định chậm nhất là hai ngày, kể từ khi đơn vị chủ trì thẩm định trình; báo cáo thẩm định của Hội đồng thẩm định được Lãnh đạo Bộ ký trong thời hạn chậm nhất là năm ngày, trước ngày Chính phủ họp. Đối với công văn góp ý văn bản nói tại điểm 1.2, đơn vị chủ trì tham gia ý kiến chỉnh lý c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThách thức đối với nền hành chính công của các nước hiện nay.doc
Tài liệu liên quan