Cái vòng luẩn quẩn trong một cuộc khủng hoảng: Hệ thống tài chính được coi là bộ não của nền kinh tế nên khi hệ thống tài chính tan vỡ các doanh nghiệp sẽ không thể vay vốn lưu động để duy trì sản xuất. Một cuộc khủng hoảng có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn, trong đó ngân hàng cắt giảm vốn cho vay, doanh nghiệp cắt giảm sản suất và cuối cùng làm giảm sản lượng và thu nhập. Khi sản lượng và thu nhập giảm, lợi nhuận sẽ giảm, doanh nghiệp không trụ vững sẽ lâm vào phá sản. Mà khi doanh nghiệp phá sản đồng nghĩa doanh nghiệp đó không trả được nợ, mà nhiều doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng có thể phá sản. Mà khi một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo việc những người gửi tiền đổ xô đến rút tiền và điều này đã làm cho khủng hoảng suy thoái là không thể tránh khỏi. Chính vì thế, biện pháp tốt nhất là khi khủng hoảng kinh tế nổ ra là các ngân hàng yếu kém nên được mua lại hoặc sáp nhập vào các ngân hàng khác nhằm đảm bảo lợi ích của người gửi tiền tránh tình trạng rút tiền ồ ạt từ họ.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2324 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Toàn cầu hoá và những mặt trái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân hàng nước ngoài được hình thành theo luật của nước ngoài nên khi tham gia vào hoạt động ở một nước nào đó nó thường chỉ chịu tác động của luật doanh nghiệp nước đó chứ không chịu tác động nhiều của luật của các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, mọi tác động của ngân hàng trung ương thông qua lãi suất chiết khấu thì thường chỉ có các ngân hàng trong nước chịu ảnh hưởng nhiều.
3.4 Kinh tế học "lọt sang xuống nia": Muốn giảm nghèo đói trước tiên cần có tăng trưởng kinh tế. Nhưng khi việc tăng trưởng kinh tế đạt hiệu quả thì cần phải có cơ chế phân chia hợp lí để đảm bảo rằng người nghèo được hưởng lợi từ thành quả đó. Bởi lẽ, bản thân tăng trưởng không thể tự nó thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng.
3.5 Những ưu tiên và chiến lược: Trước tiên, chúng ta cần phải xem xét không chỉ những gì mà IMF đã đưa vào lịch trình hành động của nó mà ngay cả những gì đã bị bỏ sót. Bởi lẽ, nhiều điểm không được đề cập trong đồng thuận Washington lại có thể mang lại cùng lúc tăng trưởng cao hơn và bình đẳng hơn. Vì vậy, trước hết các nước đang phát triển cần phải tập trung vào những mục tiêu sau: (1) cải cách ruộng đất để người lao động nghèo không chỉ có đất để sản xuất mà còn có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng, (2) kiểm soát các vấn đề về tài chính một cách hiệu quả bởi đây là nguồn gốc của những cuộc khủng hoảng trên thế giới, (3) cần phải có cấu trúc kiểm soát phù hợp trước khi tự do hoá thị trường tài chính, (4) xem xét và xác định rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường bởi hầu hết các thị trường đều hoạt động không hiệu quả và cần có sự can thiệp của chính phủ…và cuối cùng là các tổ chức quốc tế chỉ nên là người tư vấn và tài trợ nguồn vốn cần thiết cho các nước để họ có thể tự mình thực hiện những chọn lựa của họ dựa trên những hiểu biết về hậu quả và những rủi ro của từng lựa chọn.
4 Cuộc khủng hoảng Đông Á:
4.1 Một vài nguyên nhân tạo nên sự "thần kì Đông Á": Sự "thần kì Đông Á" được thể hiện rõ trên 2 mặt đó là sự tăng trưởng của thu nhập và sự giảm thiểu nghèo đói một cách nhanh chóng. Có được điều này là do các chính phủ các nước Đông Á đã có những chính sách hết sức đúng đắn: họ coi thương mại là quan trọng nhưng trọng tâm là thúc đẩy xuất khẩu chứ không phải xoá bỏ trở ngại cho nhập khẩu. Họ không nóng vội trong việc tự do hoá các thị trường một cách nhanh chóng mà được thực hiện theo một lịch trình cụ thể. Hơn thế nữa, vai trò của chính phủ trong các nước Đông Á là hết sức quan trọng bởi họ chính là những người định hướng thị trường và thúc đẩy thị trường phát triển.
4.2 Tại sao chính sách của IMF và Bộ tài chính Mỹ lại dẫn đến khủng hoảng: IMF và Bộ tài chính Mỹ cho rằng, tự do hoá hoàn toàn tài khoản vốn sẽ giúp khu vực này tăng trưởng nhanh hơn. Những nước Đông Á không cần thêm vốn bởi họ có tỷ lệ tiết kiệm cao. Tuy nhiên, họ vẫn bị thúc giục tự do hoá tài khoản vốn vào cuối những năm 80 và đầu những năm 90. Mà khi tự do hoá tài khoản vốn mà chưa có những thể chế đi kèm đã dẫn tới vô số rủi ro trong tài khoản vốn. Và một lẽ đương nhiên, khi rủi ro tăng thì tâm lý của nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng và việc tháo chạy vốn là điều không thể tránh khỏi.
IMF cho rằng, kiểm soát thị trường tài chính sẽ giảm hiệu quả kinh tế nhưng trên thực tế thì đây là một lập luận sai lầm. Bởi trước khi tự do hoá, Thái Lan áp đặt nghiêm ngặt trong việc cho vay đầu cơ bất động sản của ngân hàng. Họ quy định những hạn chế này vì họ là một nước nghèo cần có tăng trưởng và họ tin rằng đầu tư số vốn ít ỏi của mình vào khu vực sản xuất sẽ tạo thêm việc làm và kích thích tăng trưởng. Họ cũng biết rằng cho vay đầu cơ bất động sản là nguồn gốc cơ bản của suy thoái kinh tế và kiểu cho vay này sẽ dẫn đến bong bóng đầu tư, những bong bóng này chắc chắn sẽ vỡ khi nền kinh tế chao đảo. Tuy nhiên, sau khi tự do hoá tài chính theo chỉ dẫn của IMF mà chưa có được một lịch trình hợp lý và một chính sách đầy đủ đã đẩy Thái Lan lâm vào suy thoái ngày càng trầm trọng.
4.3 Những sai lầm của IMF trong khủng hoảng Đông Á (1997):
4.3.1 Sai lầm đầu tiên dẫn tới khủng hoảng là IMF đã chuẩn đoán sai vấn đề. Bởi lẽ, khi xảy ra khủng hoảng, Đông Á đang ở trong tình trạng tương đối ổn định về kinh tế vĩ mô với áp lực lạm phát thấp và ngân sách chính phủ đang cân bằng hoặc thặng dư. Điều này có 2 hàm ý. Thứ nhất là sự sụp đổ của thị trường ngoại hối và chứng khoán, sự tan vỡ của bong bong nhà đất kèm theo sự sụt giảm đầu tư và tiêu dùng đã đưa Đông Á đến suy thoái. Thứ hai là sự sụp đổ kinh tế sẽ làm suy giảm doanh thu thuế và tạo ra mất cân đối ngân sách. Như vậy, vấn đề mà các nước Đông Á cần giải quyết trước mắt là thâm hụt thực hơn là thâm hụt cơ cấu (thâm hụt tồn tại ngay cả khi nền kinh tế hoạt động ở mức toàn dụng). Nhưng IMF lại tập trung vào giải quyết thâm hụt cơ cấu.
Thứ hai, nguyên nhân suy thoái kinh tế của Đông Á là do thiếu cầu chứ không phải dư cầu như ở Mỹ Latinh. Vì thế, biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa khủng hoảng là chính phủ phải tìm cách kích cầu như giảm thuế, tăng chi tiêu hoặc nới lỏng chính sách tiền tệ. Nhưng IMF đã không làm thế, nó chỉ cho các nước vay khi các nước này cam kết thực hiện chính sách thắt chặt. Nhưng khi thực hiện chính sách này thì nó không chỉ tác động đến bản thân nền kinh tế nước đó mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến những nước láng giềng bởi khi gặp suy thoái các nước đều vực dậy nền kinh tế bằng cách cắt giảm nhập khẩu và chuyển nhu cầu tiêu dùng sang hàng nội địa. Các nước cắt giảm nhập khẩu bằng hàng rào thuế quan và phá giá tiền tệ, làm cho hàng hoá của mình rẻ hơn trong khi hàng hoá của các nước khác đắt hơn. Điều này đã làm cho sự lan truyền suy thoái kinh tế từ nước này sang nước khác trầm trọng hơn.
Thứ ba là các doanh nghiệp ở Đông Á là các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao vì thế việc áp đặt lãi suất cao đã đẩy nó nhanh chóng lâm vào tình trạng phá sản. Thậm chí nếu không phá sản, giá trị vốn cổ phần của doanh nghiệp cũng sẽ giảm nhanh chóng khi nó phải trả những khoản nợ khổng lồ cho các chủ nợ. Để bảo vệ cho luận điểm của mình là đúng, IMF đã lập luận rằng nếu lãi suất không được đẩy lên cao, tỷ giá sẽ sụp đổ và điều này sẽ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp có nợ bằng đồng đô la. Nhưng thực tế là tăng lãi suất không hề ổn định đồng tiền mà thậm chí còn đẩy các doanh nghiệp chẳng liên quan gì phải trả giá cho những doanh nghiệp vay nợ nước ngoài nhiều. Hơn thế nữa, việc giảm lãi suất sau đó đã không làm cho các doanh nghiệp phục hồi lại được bởi giá trị của doanh nghiệp đã bị xoá bỏ hoàn toàn.
Thứ tư, trong khi Nhật Bản đề nghị giúp 100 tỉ USD để thành lập Quỹ tiền tệ Châu Á, nhằm tài trợ cho những biện pháp kích thích kinh tế cần thiết thì Bộ Tài chính Mỹ và IMF đã phản đối kịch liệt. Chỉ đến khi, nó không thể lờ đi được cuộc khủng hoảng thì sự trợ giúp 30 tỷ USD sau đó của Nhật Bản mới được thông qua. Nhưng ngay cả như thế, IMF vẫn cho rằng khoản tiền đó không nên dùng để kích thích nền kinh tế mà nên dùng để tái cấu trúc doanh nghiệp và hệ thống tài chính (cứu giúp các ngân hàng nước ngoài và các chủ nợ).
4.3.2 Vòng hai của những sai lầm: Lúng túng trong tái cơ cấu
Cái vòng luẩn quẩn trong một cuộc khủng hoảng: Hệ thống tài chính được coi là bộ não của nền kinh tế nên khi hệ thống tài chính tan vỡ các doanh nghiệp sẽ không thể vay vốn lưu động để duy trì sản xuất. Một cuộc khủng hoảng có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn, trong đó ngân hàng cắt giảm vốn cho vay, doanh nghiệp cắt giảm sản suất và cuối cùng làm giảm sản lượng và thu nhập. Khi sản lượng và thu nhập giảm, lợi nhuận sẽ giảm, doanh nghiệp không trụ vững sẽ lâm vào phá sản. Mà khi doanh nghiệp phá sản đồng nghĩa doanh nghiệp đó không trả được nợ, mà nhiều doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng có thể phá sản. Mà khi một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo việc những người gửi tiền đổ xô đến rút tiền và điều này đã làm cho khủng hoảng suy thoái là không thể tránh khỏi. Chính vì thế, biện pháp tốt nhất là khi khủng hoảng kinh tế nổ ra là các ngân hàng yếu kém nên được mua lại hoặc sáp nhập vào các ngân hàng khác nhằm đảm bảo lợi ích của người gửi tiền tránh tình trạng rút tiền ồ ạt từ họ.
Coi trọng chọn lọc tự nhiên mà xem nhẹ việc giữ lưu thông cho nguồn vốn: Chiến lược tái cơ cấu tài chính của IMF được tiến hành bằng cách phân các ngân hàng thành 3 loại: những ngân hàng yếu kém cần phải đóng cửa ngay lập tức, những ngân hàng có thể cứu vãn được và những ngân hàng khoẻ mạnh. Nhưng để có thể tồn tại các ngân hàng phải đáp ứng được điều kiện của IMF là tỷ lệ vốn tối thiểu giữa vốn chủ sở hữu và dư nợ tín dụng cùng các tài sản khác. Nhưng điều này có thể là nan giải bởi khi nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng như Đông Á thì rất khó có thể huy động vốn mới. Cách còn lại duy nhất để đáp ứng tỉ lệ vốn tối thiểu là giảm dư nợ cho vay nhưng khi các ngân hàng giảm dư nợ cho vay các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tỉ lệ nợ vay cao như Đông Á càng khó khăn hơn. Và khi nhu cầu về vốn này không được đáp ứng doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất và điều này chỉ càng làm cho nền kinh tế lâm vào vòng xoáy khủng hoảng sâu hơn.
Sở hữu không rõ ràng trong tái cấu trúc doanh nghiệp: Những doanh nghiệp đối mặt với phá sản thường nằm trong tình trạng không rõ ai là chủ, người chủ hiện tại hay người chủ nợ. Vấn đề sở hữu chưa được giải quyết khi các doanh nghiệp này thoát khỏi tình trạng phá sản. Nhưng nếu không có một chủ sở hữu rõ ràng, bộ máy quản lí hiện thời và người chủ cũ có động cơ làm thất thoát tài sản. Trong trường hợp này, chính phủ cần đóng vai trò chủ động đẩy mạnh tái cơ cấu tài chính để đảm bảo rằng doanh nghiệp có chủ thực sự. Tuy nhiên, IMF không nghĩ thế, họ cho rằng chính phủ không nên đóng vai trò chủ động trong tái cơ cấu tài chính nhưng nên thúc đẩy tái cơ cấu sản xuất, bán tài sản. Nhưng điều này chỉ làm cho tình hình kinh tế thêm xấu đi chứ không thể làm cho doanh nghiệp có khả năng phục hồi.
4.3.3 Đánh bạc với rối loạn chính trị: Với những sai lầm của IMF trong việc thi hành chính sách tài khoá và tiền tệ thu hẹp đã làm cho tình trạng bất ổn chính trị ngày càng tăng lên, đặc biệt với một quốc gia có lịch sử xung đột sắc tộc như Indonesia. Mà khi bất ổn chính trị xảy ra, thì niềm tin nền kinh tế được phục hồi sẽ trở thành không tưởng. Lúc này, luồng vốn sẽ tháo chạy chứ không thu hút được vốn vào đất nước.
Bên cạnh đó, việc cắt giảm mạnh trợ cấp lương thực và nhiên liệu cho người nghèo ở Indonesia đã càng làm cho bạo loạn xảy ra gay gắt hơn và nền kinh tế càng lâm vào khó khăn hơn. Thậm chí, ngay cả khi trợ cấp được khôi phục lại thì cũng khó có thể hàn gắn lại được như trước.
4.4 Các nước Đông Á đã vượt qua khủng hoảng như thế nào?
4.4.1 Thành công của Malaysia, Trung Quốc
Thành công của Malaysia có được là do: (1) Mặc dù tỷ lệ nợ khó đòi cao nhưng ngân hàng trung ương đã có những quy định chặt chẽ đảm bảo các ngân hàng trích đủ dự phòng rủi ro. Những quy định chặt chẽ này đã giúp các ngân hàng tránh được rủi ro biến động tỷ giá và hạn chế tỉ lệ nợ nước ngoài của các doanh nghiệp mà ngân hàng cho vay. (2) Khi khủng hoảng khu vực biến thành khủng hoảng toàn cầu và thị trường tài chính đóng băng, chính phủ Mahathir đã có định đồng ringgit (3.8 ringgit=USD), giảm lãi suất và ra sắc lệnh rút tất cả các nguồn tiền tệ gửi ở nước ngoài. Chính phủ cũng áp đặt giới hạn chặt chẽ trong chuyển vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi Malaysia trong vòng 12 tháng. Những gải pháp này được thông báo là ngắn hạn và được chuẩn bị chu đáo để làm rõ rằng nước này không hề ngăn cản đầu tư nước ngoài dài hạn. Những ai đã đầu tư tiền vào Malaysia có lợi nhuận được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Điều này, đã giúp họ tránh được nhiều rủi ro do dòng vốn chảy vào hoặc ra đã được kiểm soát. Hơn nữa, kiểm soát vốn đã giúp cho họ hạ lãi suất dẫn tới là ít doanh nghiệp bị phá sản, tiền quỹ dùng để cứu các doanh nghiệp cũng ít hơn nên chính phủ cũng ít phải vay nợ hơn.
Thành công của Trung Quốc là do: (1) khi gặp suy thoái kinh tế, chính phủ đã thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô mở rộng thay vì là thu hẹp như cảnh báo của IMF. Điều này đã giúp họ tăng trưởng kinh tế mạnh hơn và tạo ra nhiều cơ hội lớn cho đầu tư công cộng với tỷ suất lợi nhuận cao. (2) Trong khi quyết định kinh tế, họ đã quan tâm tới mối quan hệ ổn định vĩ mô và kinh tế vi mô và tiếp tục tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp và tài chính, đồng thời xem xét kĩ mối quan hệ giữa kinh tế với ổn định chính trị xã hội. Và những điều trên, cộng hưởng lại đã giúp Trung Quốc vượt qua khủng hoảng một cách nhanh chóng.
4.4.2 Bức tranh tương phản giữa Hàn Quốc và Thái Lan: Trong khi Thái Lan tuân thủ hoàn toàn vào phương thuốc của IMF thì Hàn Quốc đã đi theo phương thức ngược lại. Chính phủ Hàn Quốc cũng như Malaysia đã đóng vai trò chủ động hơn trong tái cơ cấu doanh nghiệp, họ giữ tỉ giá thấp thay vì để tăng lên nhằm tích luỹ dự trữ ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Và điều này đã giúp cho Hàn Quốc phục hồi nhanh hơn nhiều so với Thái Lan.
4.5 Chiến lược thay thế: Trước tiên, để thoát khỏi khủng hoảng đòi hỏi cần giữ nền kinh tế ở mức toàn dụng lao động nhất có thể. Để đạt được nó cần duy trì chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng. Tiếp theo là phải tái cơ cấu tài chính nhưng với mục tiêu là duy trì dòng vốn, tạm dừng thanh toán các khoản nợ. Trong tái cơ cấu doanh nghiệp cần một điều khoản phá sản đặc biệt nhằm giải quyết nhanh những khó khăn do biến động kinh tế vĩ mô lớn hơn mức thông thường. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải can thiệp mạnh mẽ để tập trung tái cơ cấu tài chính, thiết lập quan hệ sở hữu rõ ràng để làm cho các doanh nghiệp tham gia trở lại thị trường tín dụng, tận dụng cơ hội xuất khẩu do tỷ giá thấp mang lại, hạn chế thất thoát tài sản và tạo động lực mạnh mẽ cho doanh nghiệp tham gia mọi quá trình tái sản xuất.
5 Sự thất bại về chính sách của IMF tại Nga:
5.1 Nguyên nhân thất bại của kinh tế kế hoạch hoá tập trung: (1) không có một cơ quan chính phủ nào có thể thu thập và xử lý đầy đủ thông tin cần thiết để đảm bảo nền kinh tế vận hành tốt. (2) Không có sở hữu tư nhân và động lực lợi nhuận sẽ không khuyến khích được sản xuất. (3) Chế độ thương mại bị kiểm soát kết hợp với bao cấp tràn lan và giá cả tuỳ tiện làm cho hệ thống giá cả bị bóp méo.
5.2 Những thách thức và cơ hội trong quá trình chuyển đổi:
5.2.1 Thách thức: (1) Các ngân hàng ở Nga cũng huy động tiền gửi nhưng họ không có quyền quyết định cho ai vay cũng như không có trách nhiệm giám sát để khoản vay đó sẽ được trả. Thay vào đó, họ chỉ việc cung cấp vốn theo lệnh của cơ quan kế hoạch trung ương. Tương tự các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, họ cũng không được quyết định sản xuất cái gì, mà chỉ cần họ sản xuất đủ chỉ tiêu theo những đầu vào sẵn có. Điều này dẫn đến nạn tham nhũng và lách luật ngày càng gia tăng khi Nga chuyển sang kinh tế thị trường. (2) Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông dân được cấp hạt giống và phân bón, họ không phải lo lắng về đầu vào hay bán sản phẩm như thế nào? (3) Dưới chế độ Liên Xô cũ, cũng không hề có thất nghiệp do đó không cần có bảo hiểm thất nghiệp. Công nhân thường làm cho một doanh nghiệp nhà nước đến hết đời và doanh nghiệp cấp nhà và lương hưu cho họ nên thị trường nhà đất và hệ thống an sinh cũng không hề tồn tại. (4) Họ phải chuyển đổi hệ thống một giá sang hệ thống giá kinh tế thị trường. Họ cũng phải tư nhân hoá tất cả các doanh nghiệp nhà nước và tạo ra cách thức kinh doanh mới nhằm phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả.
5.2.2 Cơ hội: Nga là một nước giàu và người dân có trình độ giáo dục cao, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật rất quan trong trong nền kinh tế mới.
5.3 Chiến lược cải cách: Do nhiệt tình và mong muốn chuyển nhanh sang kinh tế thị trường, hầu hết giá cả được thả nổi đã tạo động cơ cho lạm phát quét sạch các khoản tiết kiệm và đưa vấn đề ổn định vĩ mô lên hàng đầu. Để kiềm chế lạm phát, biện pháp tiếp theo đó được thực hiện là thắt chặt chính sách tiền tệ và nâng cao lãi suất. Điều này đã làm cho nhiều người không có đủ tiền để mua những doanh nghiệp được tư nhân hoá. Thậm chí, nếu họ có mua được thì việc vực dậy chúng cũng là rất khó trong bối cảnh lãi suất cao và thiếu những thể chế tài chính cung cấp vốn vay.
Trong khi hầu hết giá cả được thả nổi thì một giá giá cả quan trọng được giữ ở mức thấp như tài nguyên thiên nhiên đã dẫn đến nhiều người lợi dụng vào chính sách sai lầm của chính phủ để làm giàu thay vì kiếm tiền bằng cách thành lập doanh nghiệp mới. Những điều trên, đã làm cho chiến lược cải cách cấp tiến ở Nga gặp thất bại: GNP giảm từ năm này qua năm khác kể từ sau 1989. Các chương trình ổn định hoá, tự do hoá, tư nhân hoá với mục đích là tạo ra những tiền đề tăng trưởng cũng không tạo ra được bất cứ một sự tăng trưởng nào. Chính phủ mặc dù có tài nguyên dồi dào nhưng lại nghèo. Chính phủ không thể trả nổi lương hưu cho người già và trợ cấp phúc lợi cho người nghèo.
5.4 Cuộc khủng hoảng 1998: Trong khi nền kinh tế đang nợ nần nặng nề thì lãi suất cao do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Đông Á tạo ra những khó khăn mới giá dầu mỏ giảm và phá giá tiền tệ là không tránh khỏi.
Đồng rúp bị đánh giá quá cao dẫn tới hàng nhập khẩu tràn ngập, hàng nội địa phải cạnh tranh vất vả, đầu tư chững lại, hàng tiêu dùng không được sản xuất. Như vậy, tỷ giá bị đánh giá quá cao kết hợp với chính sách kinh tế vĩ mô mà IMF đưa vào đã "bóp chết" nền kinh tế.
Trong khi đồng rúp bị đánh giá cao là một thảm hoạ đối với người dân nước Nga và nước Nga thì với tầng lớp doanh nhân mới tỷ giá cao là một mối lợi. Vì họ chỉ cần ít đồng rúp để đổi được 1 đồng USD.
Mặc cho những khổ sở mà phần lớn người dân Nga phải gánh chịu, IMF lại khăng khăng chống lại bất kì một sự thay đổi nào trong tỷ giá và sẵn sàng bỏ hàng tỉ USD để tránh điều đó. Cho tới tháng 6/1998, Nga cần phải có sự trợ giúp bên ngoài để giữ tỷ giá. Niềm tin vào đồng rúp bị xói mòi và họ tin rằng việc phá giá đồng rúp là không tránh khỏi, lãi suất trong nước tăng vọt và tiền chạy khỏi nước Nga với tốc độ nhanh khi người dân chuyển tiền từ rúp sang USD.
Thêm vào đó, trước khi xảy ra khủng hoảng IMF đã thúc giục Nga vay ngoại tệ nhiều hơn và giảm vay bằng đồng rúp. Họ cho rằng, lãi suất đồng rúp cao hơn đồng USD nên vay bằng đồng USD chính phủ có thể tiết kiệm được chi phí. Nhưng họ đã sai lầm, bởi nếu đồng rúp bị phá giá, Nga sẽ gặp khó khăn gấp bội khi phải trả nợ cho khoản nợ bằng USD.
5.5 Kế hoạch cứu giúp và sự thất bại: Khi khủng hoảng nổ ra, IMF là người lãnh đạo những nỗ lực cứu giúp nhằm ngăn chặn sự suy giảm tỷ giá. Tổng cộng khoản giúp đỡ cả gói là 22.6 tỉ USD, trong đó IMF là 11.2 tỉ USD, WB là 6 tỉ và phần còn lại do chính phủ Nhật Bản cung cấp. Tuy nhiên, khoản vay này đã tao ra nhiều băn khoăn, họ lo rằng liệu những lợi ích đối với tăng trưởng trong tương lai có đủ lớn để bù đắp cho khoản vay này không hay chỉ gây thêm nạn tham nhũng và làm thất thoát tài sản? Thật không may, là những băn khoăn này đã trở thành hiện thực; kế hoạch cho vay tiền để ổn định tỷ giá đã không mang lại hiệu quả mà còn gây ra thiệt hại cho nền kinh tế. Cụ thể, đến tháng 1/1999, đồng rúp đã mất giá so với thực tế hơn 45% so với thời điểm tháng 7/1998, và chỉ sau 3 tuần kể từ khi khoản vay được thực hiện, Nga tuyên bố đơn phương ngừng thanh toán khoản nợ và phá giá đồng rúp. Tuyên bố này, đã đẩy nhanh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Lãi suất cho vay các thị trường mới nổi tăng cao hơn cả mức đỉnh cao của cuộc khủng hoảng Đông Á. Mà khi lãi suất tăng, người nông dân và doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Điều này đã làm cho nghèo đói và bất bình đẳng gia tăng nhanh chóng từ 2% người nghèo (1989) lên 23.8% (1998). Hơn nữa, khi bất bình đẳng và nghèo đói gia tăng nó đã làm cản trở tăng trưởng và gây nên mất ổn định về chính trị.
5.6 Liệu pháp sốc liệu có phù hợp với nền kinh tế của Nga trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường hay không? Cuộc tranh luận lớn nhất về chiến lược cải cách của nước Nga tập trung vào tốc độ của cuộc cải cách. Những người ủng hộ liệu pháp sốc cho rằng, nếu họ không tư nhân hoá nhanh chóng, tạo ra một lực lượng lớn có lợi ích đi theo chủ nghĩa tư bản, sẽ có sự đảo chiều quay lại con đường chủ nghĩa cộng sản. Những người ủng hộ cải cách từng bước lại cho rằng, nếu họ chuyển đổi quá nhanh, cải cách sẽ trở thành thảm hoạ với thất bại kinh tế đi kèm với tham nhũng chính trị. Họ tin rằng quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường sẽ tốt hơn nếu được chuyển đổi với nhịp độ hợp lí, theo thứ tự phù hợp. Bởi nếu tư nhân hoá một lĩnh vực độc quyền mà chưa có môi trường cạnh tranh hay một cơ chế quản lý hiệu quả có thể sẽ biến thành độc quyền tư nhân, bóc lột người tiêu dùng thậm chí còn tồi tệ hơn. Vì vậy, vội vã sẽ gây ra lãng phí và không thể có được một chương trình cải cách tốt. Thứ tự và nhịp độ cải cách đóng vai trò quan trọng. Chẳng hạn, có những điều kiện tiên quyết để tư nhân hoá thành công trên quy mô lớn và việc tạo ra những điều kiện tiên quyết đó cần có thời gian. Hình mẫu cải cách ở Nga cho thấy động cơ lợi ích đóng vai trò quan trọng nhưng chủ nghĩa tư bản nửa mùa ở Nga không tạo ra động lực cho hoạt động tạo ra của cải vật chất và tăng trưởng kinh tế mà tạo ra động lực cho hoạt động bòn rút tài sản.
6. Luật lệ thương mại bất công và những thủ đoạn khác:
6.1 Điều đáng lẽ nên làm: Những lợi ích dài hạn của phương Tây có lẽ đã được đảm bảo tốt hơn nếu như IMF và Bộ tài chính Mỹ không dính líu quá thân mật với một vị lãnh đạo cụ thể nào, miễn là họ duy trì được sự ủng hộ rộng rãi trong các tiến trình dân chủ. Điều này có thể đạt được thông qua việc ủng hộ những nhà lãnh đạo trẻ mới nổi ở Moscow và các tỉnh, những người chống lại tham nhũng và nỗ lực tạo dựng một nền dân chủ thực sự.
6.2 Lợi ích của Mỹ và cải cách ở Nga: Có nhiều người ở Nga cho rằng những chính sách của IMF thất bại không phải là một tai nạn ngẫu nhiên: những thất bại này đều được tính toán nhằm bòn rút sức mạnh của Nga và làm cho nó vĩnh viễn không thể trở thành mối đe doạ trong tương lai. Nhưng, những chính sách đó không hoàn toàn vô vị lợi. Lợi ích kinh tế của Mỹ - nói đúng hơn là những lợi ích thương mại, tài chính đã được phản ánh trong chính sách này. Chẳng hạn, sự trợ giúp vào tháng 7/1998 vừa là sự trợ giúp cho những ngân hàng phương Tây có nguy cơ mất hàng tỉ USD, vừa là sự trợ giúp cho Nga. Nhưng không chỉ lợi ích trực tiếp của phố Wall mà cả hệ tư tưởng phổ biến trong công đồng tài chính cũng ảnh hưởng đến các chính sách. Chẳng hạn, phố Wall cho rằng lạm phát làm xói mòn giá trị thực các khoản nợ, làm tăng lãi suất và làm giảm giá trái phiếu. Với các nhà tài chính, thất nghiệp không phải là mối quan tâm nhiều lắm. Với phố Wall, chẳng có gì quan trọng bằng tài sản tư nhân nên chẳng có gì ngạc nhiên khi tư nhân hoá được quan tâm đến thế.
Những nhóm lợi ích ở Mỹ đã tác động đến chính sách theo cách đi ngược lại với lợi ích quốc gia và làm cho Mỹ có vẻ như một đất nước đạo đức giả. Nước Mỹ ủng hộ tự do thương mại nhưng khi các nước nghèo tìm ra được một mặt hàng nào đó có thể xuất sang Mỹ thì thường là những nhóm lợi ích bảo hộ lại thắng thế. Họ sử dụng nhiều luật lệ thương mại để dựng lên những hàng rào thép gai nhằm ngăn cản nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển.
6.3 Vụ hình thành Cartel nhôm: Ngay sau khi giá nhôm rơi tự do vào năm 1994, những nhóm lợi ích ở Mỹ đã can thiệp vào thương mại và quá trình cải cách. Để phản ứng lại sự sụt giá, những nhà sản xuất nhôm Mỹ đã cáo buộc Nga bán phá giá. Nhưng trên thực tế, Nga đang bán đúng giá quốc tế, mức giá đã bị giảm là do cầu về nhôm trên toàn cầu giảm khi kinh tế toàn cầu suy thoái và bởi Nga cắt giảm sử dụng nhôm cho các máy bay quân sự. Nhưng điều đáng nói ở đây là, Mỹ là quốc gia rất ủng hộ chính sách kinh tế thị trường nhưng chính phủ Mỹ không chỉ cho phép mà còn đóng vai trò quan trong trong việc tạo ra cartel nhôm. Cartel này hoạt động bằng cách hạn chế sản lượng nhằm nâng giá nhôm lên. Điều này đã gây ảnh hưởng không tốt bởi nó dễ tạo ra những cuộc chiến đẫm máu để tranh giành hạn ngạch vì với cartel, mỗi nước sẽ được cấp một hạn ngạch nhôm họ được phép sản xuất hoặc xuất khẩu.
6.4 An ninh quốc gia để bán: Vào thời kì của chính quyền Bush (cha) và thời kì đầu của chính quyền Clinton, Nga và Mỹ đã kí một bản thoả thuận "biến gươm giáo thành cày cuốc". Một doanh nghiệp của chính phủ Mỹ - USEC sẽ mua uranium lấy từ đầu đạn hạt nhân của Nga và chuyển về Mỹ sử dụng trong các nhà máy điện nguyên tử. Vụ mua bán này sẽ giúp Nga số tiền Nga đang cần để kiểm soát tốt hơn kho nguyên liệu hạt nhân Nga đang nắm giữ.
Không thể tin nổi là người ta lại viện dẫn đến những luật thương mại công bằng để cản trở vụ chuyển giao này. Nhưng nhà sản xuất uranium của Mỹ tuyên bố rằng Nga đang bán phá giá uranium trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên thì cũng như vụ hình thành Cartel nhôm đã trình bày ở trên, Nga hoàn toàn không bán phá giá.
Hơn nữa, khi USEC được uỷ quyền để mang uranium đã làm giàu từ Nga về thì nhiều chuyên gia đã cảnh báo về động cơ của một USEC bị tư nhân hoá- nó sẽ có động cơ để không mang uranium về Mỹ. Đây là một mối lo ngại về sự tràn lan của vũ khí hạt nhân - về việc nguyên liệu hạt nhân sẽ lọt vào tay của những tổ chức khủng bố. USEC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Toàn cầu hoá và những mặt trái.doc