Lỗi là một trong bốn yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác nói riêng. Chúng ta bắt buộc phải xem xét đến yếu tố này, bởi lẽ, trên thực tế đã chứng minh có những trường hợp xảy ra, lỗi hoàn toàn thuộc về người chịu thiệt hại. Ví dụ như, có những ca sĩ, diễn viên, tự mình đã tạo ra scandan với những hình thức khác nhau để mong muốn mình được mọi người quan tâm, để ý đến. Vô tình hay cố ý, những hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính họ. Lỗi trong những trường hợp này thuộc về chính bản thân những người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Lúc này, trách nhiệm gây ra thiệt hại không thể quy cho ai khác được.
Theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự thì : Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3669 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của những người làm luật và áp dụng pháp luật bởi thiệt hại thường bao gồm cả hai loại trực tiếp và gián tiếp. Nhất là những thiệt hại do xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm là những thiệt hại về các quyền nhân thân rất khó xác định những tổn thất thực tế thành tiền một cách chính xác tuyệt đối. Giống như cách xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, những thiệt hại do xâm phạm đến các quyền nhân thân được xác định bao gồm: “trách nhiệm bồi thường về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần” (Điều 307 BLDS).
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì :
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí cho tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được xác định là : nếu trước khi bị xâm phạm, các chủ thể này có thu nhập thực tế, tuy nhiên do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm nên thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
2. Hành vi gây thiệt hại được xác định là hành vi trái pháp luật.
Pháp luật cấm tất cả những hành vi gây tổn thất cho người khác, cho dù đó là hành vi cố ý hay vô ý. Trong lĩnh vực pháp lý, một người phải thực hiện một việc, hoặc cấm không được thực hiện một việc cụ thể nhưng người đó không thực hiện hoặc thực hiện việc pháp luật cấm đều bị coi là hành vi trái pháp luật.
Mà như ta đã biết Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó.
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó. Trên thực tế, nếu xét về hậu quả hành vi thì không phải bao giờ hành vi gây thiệt hại cũng bị coi là hành vi trái pháp luật. Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện hành vi đó, hay đo là những hành vi phù hợp với phạm vi mà luật cho phép. Ví dụ như gây thiệt hại trong các trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết hay sự kiện bất ngờ.
3. Quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách quan của bản thân các sự vật, tất cả các hiện tượng đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất định. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại xảy ra, cần thiết phải phân biệt nguyên nhân với những điều kiện nhất định. Những điều kiện này là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra, nhưng bản thân chúng không gây ra một biến cố nào. Còn một nguyên nhân nhất định, trong những hoàn cảnh cụ thể chỉ có thể gây ra một hậu quả nhất định.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 604 BLDS dưới dạng: “Người nào…xâm phạm…mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”. Ở đây hành vi xâm phạm đến danh dự, uy tín của người khác là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là một vấn đề rất phức tạp. Theo phép biện chứng duy vật thì quan hệ nhân quả là một dạng của mối liên hệ giữa các hiện tượng (sự vật, quá trình) trong đó một hiện tượng được coi là nguyên nhân với những điều kiện nhất định đã làm phát sinh một hiện tượng khác (gọi là kết quả). trách nhiệm bồi thường dân sự dựa trên cơ sở của mối quan hệ mang ý nghĩa nhân quả giữa hành vi khách quan (hành vi trái PL) với hậu quả (thiệt hại xảy ra). Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng sẽ không phát sinh nếu thiệt hại xảy ra không phải là kết quả tất yếu trực tiếp của hành vi trái pháp luật thuộc về người gây thiệt hại xâm phạm đến các quyền nhân thân của người bị thiệt hại. Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người gây thiệt hại chúng ta cần phải đảm bảo cho được tính tất yếu khách quan vốn có quy luật của sự việc, hiện tượng chứ không thể chỉ căn cứ vào một sự ngẫu nhiên nào đó. Đây cũng chính là yếu tố cần phải tuân thủ của các cán bộ làm công tác xét xử để tránh việc suy đoán nhận định một cách tùy tiện khi giải quyết các vụ án tranh chấp về bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến các quyền nhân thân của chủ thể.
4. Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là một trong bốn yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác nói riêng. Chúng ta bắt buộc phải xem xét đến yếu tố này, bởi lẽ, trên thực tế đã chứng minh có những trường hợp xảy ra, lỗi hoàn toàn thuộc về người chịu thiệt hại. Ví dụ như, có những ca sĩ, diễn viên, tự mình đã tạo ra scandan với những hình thức khác nhau để mong muốn mình được mọi người quan tâm, để ý đến. Vô tình hay cố ý, những hành vi này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của chính họ. Lỗi trong những trường hợp này thuộc về chính bản thân những người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Lúc này, trách nhiệm gây ra thiệt hại không thể quy cho ai khác được.
Theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự thì : Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy khi lỗi là của người gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới hai dạng hình thức là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp này, cho dù người gây thiệt hại có mong muốn hay không mong muốn hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác nhưng đã có thái độ để mặc cho hậu quả xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Khi một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ xâm phạm đền danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng lại để mặc cho danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm thì lỗi của người gây thiệt hại là cố ý. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi có ý thức của người gây thiệt hại và trong tâm thức của người đó mong muốn thiệt hại xảy ra cho người khác đã làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người đó.
- Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Hành vi của một người mà xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà người đó đã không mong muốn, không để mặc cho hậu quả xảy ra mà là do không kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì người đo phải bồi thường.
Khi xét đến yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta không thể không xét đến trường hợp hỗn hợp lỗi. Tại Điều 617 Bộ luật dân sự 2005 thì : Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Việc trách nhiệm hỗn hợp lỗi căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Nhưng lỗi trong trách nhiệm dân sự có những trường hợp là lỗi suy đoán. Bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có lỗi. Người bị thiệt hại trong nhiều trường hợp không thể chứng minh được, nếu buộc họ chứng minh sẽ bất lợi cho họ. Vì vậy, Bộ luật Dân sự đã quy định nghĩa vụ chứng minh về lỗi thuộc về người gây thiệt hại như là một sự bổ sung nghĩa vụ của người đó.
Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì được coi là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Những người chưa có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của họ, thì họ không phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp trên cha mẹ, người giám hộ, trường học, bệnh viện là những người theo quy định của pháp luật phải quản lý, chăm sóc, giáo dục…được suy đoán là đã có lỗi khi không thực hiện các nghĩa vụ nêu trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của họ.
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí người gây ra thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (khoản 3 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên, có trường hợp người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì không phải bồi thường.
Trong nhiều vụ án phức tạp, thiệt hại xảy ra do lỗi hỗn hợp của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thì Thẩm phán cần xác định đúng mức độ lỗi của các bên, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và lỗi của người gây thiệt hại hay người bị thiệt hại trên cơ sở đó mới ra được quyết định bản án một cách khách quan đúng pháp luật. Xem xét một sự kiện để xác định xem nó có gây thiệt hại hay không cấn phải xét đến góc độ tâm lý và đánh giá thái độ của người gây thiệt hại xem họ có lỗi hay không? Nghĩa là cần xem người gây thiệt hại đã vận dụng hết các khả năng của mình để tránh không gây thiệt hại hay chưa? Hay nói cách khác liệu người gây thiệt hại có khả năng để lựa chọn cách xử sự không gây thiệt hại hay không?
Trên đây là phân tích về bốn yếu tố cơ bản mang tính điều kiện là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác. Các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng qua lại với nhau. Ngoài những trường hợp đặc biệt do luật định, bất cứ quyết định nào nhằm xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh là đầy đủ bốn yếu tố trên. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này thì có nghĩa là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa được xem xét một cách khách quan, toàn diện.
Khi hành vi của một chủ thể được xác định đầy đủ bốn yếu tố như trên thì có nghĩa là họ sẽ có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Vậy, câu hỏi đặt ra là Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác và bồi thường như thế nào và nồi thường bao nhiêu được đề cập đến trong phần III này.
III. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân.
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khi do hành vi của một chủ thể này đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác mà thiệt hại đối với người bị xâm phạm đã xảy ra và yếu tố lỗi thuộc về người gây ra hành vi xâm phạm thì đương nhiên người gây ra hành vi ấy hay gọi là người gây thiệt hại đương nhiên phải bồi thường. Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước…Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. Bộ luật Dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (Điều 606 BLDS) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, Bộ luật Dân sự 2005 quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân như sau :
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng bằng hành vi của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ” (Điều 19 BLDS) họ phải chịu trách nhiệm do hành vi bất hợp pháp của họ bằng tài sản của chính họ. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, nhiều người tuy có đầy đủ năng lực hành vi nhưng khả năng về tài sản của họ trên thực tế không có. Vì vậy khi quyết định bồi thường đối với những người này có thể động viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ, nếu cha mẹ tự nguyện bồi thường thì ghi nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha mẹ phải bồi thường thay cho con em họ.
- Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy đủ năng lực hành vi. Vì vậy, cha mẹ là người phải bồi thường thiệt hại do con em họ gây ra. Tuy nhiên, cách thức dùng tài sản để bồi thường được quy định đối với những người vị thành niên khác nhau. Đối với những người dưới 15 tuổi thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường; nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng, thì lấy tài sản của con để bồi thường. Đối với những người từ 15 đến dưới 18 tuổi thì lấy tài sản của con để bồi thường cha mẹ chịu trách nhiệm bổ
sung phần còn thiếu.
- Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý thì trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường.
- Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử đối với những người phải có giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLDS được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung. Tuy nhiên nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong trường hợp này sẽ không có người bồi thường thiệt hại bởi những người được giám hộ không có khả năng về năng lực hành vi để bồi thường, nếu họ có tài sản có thể dùng tài sản của họ để bồi thường.
2. Nguyên tắc tính mức bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị xâm hại.
a. Phải bồi thường toàn bộ và kịp thời các thiệt hại vật chất đã xảy ra và bù đắp một phần những tổn thất tinh thần bằng một lượng giá trị vật chất nhất định.
Đây là nguyên tắc chung bao trùm và là một nguyên tắc công bằng hợp lý, phù hợp với tập quán của nhân dân ta là gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Bồi thường toàn bộ các thiệt hại vật chất là bồi thường tất cả các thiệt hại vật chất đã xảy ra bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Còn bồi thường kịp thời là bồi thường đúng lúc người bị thiệt hại đang cần để dùng vào việc hạn chế khắc phục thiệt hại. Do đó, việc bồi thường đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng là rất quan trọng nhằm phát huy tối đa hiệu quả của việc bồi thường.
* Những thiệt hại phải bồi thường toàn bộ trong quan hệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là:
- Các thiệt hại vật chất: là những tổn thất vật chất cụ thể, có thể cảm nhận
được bằng các giác quan có thể tính toán được bằng tiền:
+ Các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại:
~ Chi phí phải bỏ ra do xâm phạm thân thể, sức khỏe khi bị làm nhục, bị hiếp dâm, cưỡng dâm…có thể gồm các khoản dành cho việc chữa trị vết thương, do bị truyền bệnh (các khoản thuốc men, khám chữa, viện phí...), chi phí cho việc bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.
~ Chi phí cho việc giám định (sức khỏe, tài liệu…).
~ Phí tổn tàu xe đi lại của nạn nhân (đi giám định, đi khám chữa bệnh, đi theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, xét xử…).
~ Chi phí thu hồi của một ấn phẩm hay đăng lời cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng để khôi phục lại danh dự, nhân phẩm… .
Điều 611 quy định phải bồi thường chi phí hợp lý, thế nhưng khái niệm “chi phí hợp lý” ở đây chỉ mang tính chỉ mang tính định tính, không phải là yếu tố định lượng. Việc xác định thế nào là chi phí cho từng vụ án là thuộc trách nhiệm của Thẩm phán giải quyết của vụ án bởi lẽ mỗi vụ án có đặc thù riêng, không vụ nào giống vụ nào, cho nên thiệt hại cụ thể của từng vụ án là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, xem xét đánh giá chi phí nào là chi phí hợp lý phải đặt trong bối cảnh không gian, thời gian và diễn biến cụ thể của từng vụ án. Ví dụ chi phí cho đi lại để thu hồi một ấn phẩm, hay giá trị số thuốc theo đơn phải mua ở nước ngoài…không thể cao hơn mức giá trung bình ở địa phương tại thời điểm đó. Mức giá trung bình được coi là mức giá hợp lý. Nếu người bị thiệt hại đưa ra mức giá cao hơn rất nhiều so với lần mức giá trung bình ở địa phương là không hợp lý. Nếu các chi phí không liên quan trực tiếp đến hành vi gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm thì cũng không được coi là những chi phí hợp lý của vụ án.
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút phải là những khoản thu nhập có thực không được suy đoán. Trước khi có hành vi gây thiệt hại họ vẫn có thu nhập bình thường, ổn định nhưng từ khi có hành vi xâm phạm đến quan hệ nhân thân này thì khoản thu nhập đó không còn, hoặc bị giảm sút so với trước. Vì vậy khoản thu nhập bị mất chính là khoản thu nhập không thu được của người bị hại. Khoản thu nhập bị mất đó có thể là:
~ Thu nhập bị mất trong thời gian nạn nhân nằm viện (ví dụ như để điều trị tâm lý do chịu ảnh hưởng từ việc danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình bị xâm phạm), hoặc sau khi ra viện nhưng vẫn phải nghỉ lao động nên
không có thu nhập.
~ Thu nhập bị mất của người thân phải nghỉ lao động đi chăm sóc hoặc thời gian đi tìm nạn nhân (ở các vụ hiếp dâm, làm nhục, mua bán phụ nữ, trẻ em…)
~ Các khoản thu nhập bị mất do bị mất việc làm. Ví dụ: một người bác sĩ, do hành vi của người khác đã làm mất uy tín của người bác sĩ đó, như là đã loan tin rằng bác sĩ trình độ thấp, chữa cho nhiều bệnh nhân không khỏi, thu tiền công chữa bệnh cao mà trên thực tế lại không phải như thế, hành vi này đã dẫn đến khách hàng từ chối không đến khám bệnh, mọi người xa lánh, mất thể diện với đồng nghiệp. Nếu dẫn đến không hành nghề được thì phải tính đến thu nhập bị mất. Nếu chỉ giảm khách hàng thì tính đến khoản thu nhập bị giảm sút.
~ Đối với hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người sản xuất kinh doanh mà gây thiệt hại cho việc kinh doanh của người đó thì thiệt hại phải bồi thường có thể là toàn bộ giá trị lô hàng không bán được (đây là thu nhập bị mất) hoặc mức chênh lệch của lợi nhuận. Nếu do hành vi xâm phạm mà hiện nay phải thu hẹp sản xuất, hàng bán chậm thì đây là thu nhập bị giảm sút.
Như vậy khoản thu nhập bị giảm sút chính là khoản chênh lệch trước khi có hành vi gây thiệt hại và sau khi có hành vi gây thiệt hại.
* Những thiệt hại chỉ bồi thường một phần trong quan hệ danh dự, nhân phẩm
Ngoài những thiệt hại vật chất nói trên, hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác còn gây ra những thiệt hại tinh thần. Khoản tiền bù đắp về tinh thần không phải là đại lượng để xác định những thiệt hại về tinh thần mà người bị thiệt hại hoặc người thân thích của họ bị tổn thất bởi lẽ những tổn thất về tinh thần không thể cân, đong, đo, đếm, xác định được một cách chính xác hoặc tương đối chính xác như thiệt hại về vật chất; mức độ tổn thất về tinh thần nhiều hay ít cũng không phụ thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm; cũng không phụ thuộc vào hình thức lỗi của người xâm phạm, mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị hiểu lầm của người bị thiệt hại hoặc người thân thích của người bị thiệt hại... . Muốn hạn chế, khắc phục những thiệt hại về tinh thần phải dùng nhiều biện pháp như chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai… Tuy vậy, biện pháp buộc người gây thiệt hại về tinh thần phải bồi thường bằng một số tiền nhất định có tác dụng an ủi, động viên là dịu bớt nỗi đau của họ, góp phần giảm bớt những thiệt hại tinh thần mà họ phải gành chịu.
- Những tổn thất tinh thần có thể gồm:
+ Sự đau đớn thể xác hoặc mất tự do
~ Đau đớn về thể xác có thể xảy ra khi nạn nhân đang bị thủ phạm dùng bạo lực tấn công (hiếp dâm, ngược đãi, làm nhục…)
~ Những cơn đau do bệnh tật tạo ra (thủ phạm hiếp dâm..có thể truyền bệnh cho nạn nhân)
~ Sự đau đớn về tinh thần: cảm giác tủi nhục, uất ức, bực bội…ở trạng thái ức chế cao độ có thể gây nên những bất ổn về tâm thần.
~ Mất tự do: có thể do bị tạm giam, bị tù oan
Tóm lại, cảm giác đau đớn về thể xác và tinh thần hoặc bị mất tự do cần phải coi là thiệt hại về tinh thần vì đó là những hiện tượng có thật mà nạn nhân phải gánh chịu.
+ Thiệt hại do mất khả năng vui chơi, giải trí.
Từ các hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm gây nên những tổn thương các bộ phận cơ thể làm mất khả năng thực hiện các chức năng bình thường của con nguời gây nên bệnh tật dẫn làm cho họ lo lắng, buồn phiền, suy giảm niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống. Nếu hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm kéo dài có thể tạo ra sự khủng hoảng, suy sụp về tinh thần có thể đưa đến các trạng thái bệnh lý tâm thần.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ kịp thời không làm triệt tiêu nguyên tắc tự định đoạt, tự do thỏa thuận của Bộ luật dân sự 2005. Vì vậy các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường thấp hơn so với thực tế hay lựa chọn các phương thức bồi thường (bằng tiền mặt, thực hiện một công việc…) cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của các bên. Tuy nhiên, sự thỏa thuận này phải trên cơ sở tự nguyện, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội thì mới có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp nhiều người cùng có hành vi gây thiệt hại về danh dự,
nhân phẩm cho một hoặc một số người thì họ cũng chịu trách nhiệm liên đới bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người gây thiệt hại được xác định trên cơ sở lỗi của họ. Trong trường hợp không xác định được lỗi của mỗi người thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng nhau cho toàn bộ thiệt hại.
b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường hoặc không phải bồi thường trong các trường hợp đặc biệt.
* Giảm mức bồi thường.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 605 “Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”. Dưới góc độ lý thuyết thì các hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý là thể hiện sự chống đối xã hội cao hơn các hành vi do lỗi vô ý. Do đó nguyên tắc này không đặt vấn đề giảm bồi thường do lỗi cố ý, mà chỉ xem xét giảm bồi thường trong trường hợp người gây thiệt hại do lỗi vô ý. Đây là nguyên tắc cụ thể bổ sung cho nguyên tắc trên nhằm vừa đảm bảo tính khả thi của các quyết định buộc bồi thường, vừa căn cứ và mức độ lỗi để đảm bảo tính hợp lý khi buộc bồi thường. Tuy nhiên quy định này mới chỉ định tính chứ chưa định lượng tức là không quy định cụ thể việc giảm mức bồi thường bao nhiêu, cho nên việc quyết định giảm mức bồi thường trong từng vụ cụ thể phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, mức độ lỗi của người gây thiệt hại. Mặt khác, phải xem mức thiệt hại là lớn hay nhỏ. Nếu thiệt hại không lớn thì dù gây thiệt hại chỉ có lỗi vô ý cũng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nhưng nếu thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại thì cần xem xét để giảm mức bồi thường.
Khi xem xét thiệt hại có quá lớn so với khả năng kinh tế hay không thì không thể chỉ nhìn vào hoàn cảnh kinh tế, thu nhập hiện tại của đương sự mà phải tính đến khả năng thu nhập về sau này của đương sự.
Có những trường hợp ban đầu kẻ vi phạm chỉ có ý định xâm phạm danh dự, nhân phẩm nhưng quá trình diễn biến, kẻ vi phạm đã gây thiệt hại về cả sức khỏe , quyền tự do…thì thiệt hại gây ra càng lớn và mỗi vụ án đều có tình tiết thiệt hại, điều kiện hoàn cảnh của các bên rất khác nhau. Do đó không thể quy định một mức bồi thường chung cho tất cả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.doc