Tiểu luận Trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế

Như ta biết luật quốc tế là một hệ thống pháp luật đặc biệt không có cơ quan lập pháp, hành pháp tư pháp như luật quốc gia. Các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế được hình thành thông qua sự thỏa thuận, đấu tranh, thương lượng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế và nó được biểu hiện bằng sự tuân thủ, tự nguyện kết hợp với các biện pháp cưỡng chế thi hành do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận áp dụng.

Ví dụ: Khi quyết định các biện pháp nhằm bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế thì Hội Đồng Bảo An của LHQ chỉ thay mặt, nhân danh các quốc gia thành viên LHQ chứ không phải là cơ quan tối cao đứng trên các quốc gia để áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cụ thể Hôi đồng bảo an LHQ áp dụng biện pháp cưỡng chế vũ trang trong những trường hợp đặc biệt cần thiết.

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7463 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về bảo vệ môi trường. Ví dụ: Tàng trữ, sử dụng vũ khí hạt nhân, vi trùng, chất hóa học gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, biển cả. Ngoài quốc gia thì các cá nhân cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Ví dụ: Tòa án quốc tế Nuremberg và Tokyo xét xử tội phạm chiến tranh thế giới thứ hai. Những vi phạm pháp luật quốc tế thông thường. Theo như đã nói ở trên thì các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế khác không phải là tội ác quốc tế thì được coi là vi phạm pháp luật quốc tế thông thường. Cụ thể đó là hành vi của chủ thể luật quốc tế trái với pháp luật quốc tế với mức độ không nghiêm trọng như tội ác quốc tế nhưng đã gây thiêt hại cho 1 hoặc 1 số chủ thể luật quốc tế khác. Ví dụ như việc không hành động cần thiết để dẫn tới hành động chống lại đại diện ngoại giao nước ngoài, vi phạm các nghĩa vụ thương mại… Trong các trường hợp đó, trách nhiệm pháp lý đặt ra trong quan hệ giữa chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế với chủ thể bị thiệt hại. Ghi chú Phân biệt hành vi thiếu thân thiện của các quốc gia với vi phạm pháp luật quốc tế. Hành vi thiếu thân thiện được hiểu là một hành vi của quốc gia làm thiệt hại cho quốc gia khác nhưng không vi phạm tới cam kết quốc tế. Các hành vi thiếu thân thiện đó làm thiệt hại tới lợi ích không được luật quốc tế bảo vệ của quốc gia khác. Ví dụ, hành vi hạn chế một số quyền của cá nhân và pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại, tăng thuế hải quan ở một số mặt hàng nhập khẩu, quốc hữu hóa đối với sở hữu nước ngoài. Trong các trường hợp như vây, quốc gia bị đối xử thiếu thân thiện có quyền tự hành động để đối phó lại nhưng không được vi phạm các quy định và cam kết quốc tế. Hiện tại luật quốc tế chưa có quy định cấm áp dụng các hành vi thiếu thân thiện kiểu nêu trên trong quan hệ quốc tế. Do vậy vai tró quan trọng trong vấn đề điều chỉnh các quan hệ loại này thuộc về các quy phạm đạo đức và chính trị quốc tế. Chẳng hạn, vụ kiện bán phá giá cá ba sa của Mỹ đối với Việt Nam là 1 trường hợp như thế. Vì ưu thế cá ba sa nước ta khi xuất sang Mỹ với giá rẻ mà chất lượng tốt làm ảnh hưởng lớn đến các hiệp hội kinh doanh cá của Mỹ, nên Mỹ đã dùng cách này để hạn chế hàng Việt Nam. Phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của chủ thể luật quốc tế với hành vi vi phạm được xác định là loại tội phạm có tính chất quốc tế. Tội phạm mang tính chất quốc tế là các tội phạm hình sự, do các ca nhân thực hiện, xâm phạm tới trật tự pháp lý quốc tế hoặc quốc gia và mang tính chất nguy hiểm trên phạm vi quốc tế. Cơ sở pháp luật của sự truy cứu trách nhiệm đối với các loại tội phạm này là các công ước quốc tế về đấu tranh chống một số loại tội phạm đặc biệt( tội không tặc, tội khủng bố, tội buôn bán ma túy, chất phóng xạ…) và các quy phạm pháp luật hình sự của các quốc gia được ban hành trên cơ sở các công ước đó. Đặc điểm khác biệt của tội phạm mang tính chất quốc tế là ở chỗ, những tội phạm này được thực hiện bởi các cá nhân, không có liên quan tới các chính sách của quốc gia. Nói cách khác, các cá nhân khi phạm tội phạm có tính chất quốc tế không phải là các nhà chức trách hoặc công chức thay mặt quốc gia khi thi hành công vụ. Về nguyên tắc, quốc gia không chịu trách nhiệm về hoạt động của các cá nhân, do vậy, các loại tội phạm trên không là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế của chủ thể luật quốc tế. Chủ thể luật quốc tế là quốc gia không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ chịu trách nhiệm về vật chất, tinh thần. Các cá nhân khi vi phạm thì phải chịu trách nhiệm về hình sự. 2.2.2 Trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan: Khái niệm Là hậu quả pháp lý phát sinh do chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế gây hại cho chủ thể khác. Căn cứ để xác định: Có hành vi trái pháp luật quốc tế: gồm 4 dấu hiệu: Hành vi vi phạm thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. + Thực hiện các hành vi mà pháp luật quốc tế cấm. + Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ xuất phát từ các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế hoặc các văn bản pháp luật quốc gia quốc gia đơn phương ban hành. + Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ pháp sinh trong tố tụng quốc tế như không tuân thủ và thực hiện các phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp của Tòa án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế mà các bên đã tự nguyện thừa nhận thẩm quyền của các cơ quan này. + Diễn ra do cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước, công dân quốc gia thực hiện như xâm lược, tấn công biên giới, chỉ đạo xâm nhập tòa đại sứ…Không ngăn cản các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế mà công dân đang thực hiện, không trừng trị các công dân gây hại cho công dân nước khác, không ra văn bản thực hiện các cam kết quốc tế. Hành vi trái pháp luật quốc tế phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ quốc tế, không phù hợp với các nghĩa vụ ghi nhận trong các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế mà quốc gia đã kí kết, không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Các nghĩa vụ này đang có hiệu lực đối với quốc gia vào thời điểm hành vi vi phạm được thực hiện. Hành vi được xem xét trên cơ sở luật quốc tế. Và vì vậy, cho dù phù hợp với luật quốc gia nhưng lại không phù hợp với luật quốc tế thì vẫn là hành vi vi phạm. Ý nghĩa của yếu tố này: là điều kiện cơ bản để xác định có hay không có trách nhiệm pháp lý, vì thiếu điều kiện này sẽ không đặt ra trách nhiệm pháp lý quốc tế. Có thiệt hại xảy ra: thiệt hại xảy ra là cơ sở để giải quyết vấn đề bồi thường, sự xâm hại đến các lợi ích luật quốc tế bảo vệ có thể là: Để xác định trác nhiệm pháp lý quốc tế đối với một chủ thể luật quốc tế, đặc biệt là việc xác định trách nhiệm đền bù thiệt hài thì hành vi trái pháp luật dù ở mức độ hay hình thức nào cũng phải đã gây ra thiệt hại cho chủ thể khác hoặc cho các quan hệ được luật quốc tế bảo vệ. Thiệt hại về vật chất hay phi vật chất, hay vừa là vật chất vừa là phi vật chất. Thiệt hại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, gây ra với một quốc gia hay nhiều quốc gia. Thiệt hại có thể gây ra cho một chủ thể nhất định, có thể nhiều chủ thể hay cộng đồng. Ý nghĩa của yêu tố này: mặc dù nó không có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định có trách nhiệm pháp lý quốc tế hay không nhưng là cở sở giải quyết bồi thường thiệt hại. Có mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật quốc tế và thiệt hại: Về nguyên tắc không thể bắt buộc một quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại không phải do mình gây ra. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra thể hiện ở chỗ thiệt hại xảy ra là hậu quả tất yêu phát sinh từ hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm phải là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại đã xảy ra. Nếu không xác định được môi quan hệ nhân quả thì thiệt hại xảy ra cho các chủ thể khác hoặc cộng dồng quốc tế không phải do hành vi trái pháp luật trên trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác. Hành vi trái pháp luật quốc tế phải là nguyên nhân dẫn đến hậu quả xảy ra thiệt hại về vật chất và tinh thần. Ý nghĩa của yếu tố này: là cơ sở để xác định đúng chủ thể có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm pháp lý chủ quan, đảm bảo tính khách quan, tránh suy diễn chủ quan trong xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế. Yếu tố lỗi: Lỗi trong trách nhiệm pháp lý quốc tế không phải là yếu tố bắt buộc, bởi vì xem xét yếu tố lỗi chính là xem xét mặt chủ quan của hành vi nghĩa là xác định trạng thái tâm lý của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy, sẽ không thực tế đối với các chủ thể của hệ thống pháp luật quốc tế - những chủ thể được tạo thành từ một tập thể người – luôn luôn hành động một cách có lý chí và có tự do ý chí, chẳng hạn không thể nói rằng từ một hoàn cảnh khác quan hoặc chủ quan nào đó mà một quốc gia không thể có khả năng nhận thức được và từ đó không thể lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, yếu tố lỗi cũng có ý nghĩa nhất định trong việc xác định mức độ bồi thương trong trách nhiệm pháp lý quốc tế. 3. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm pháp lý quốc tế: Không phải mọi hành vi vi phạm luật quốc gia đều dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế, mà trên thực tế có những hành vi của quốc gia có những yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật nhưng hoàn toàn có sơ sở để miễn truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế. Trong Hiến Chương Liên Hợp Quốc ghi nhận những trường hợp được miễn truy cứu sau: Tự vệ hợp pháp điều 34 Đối phó hành vi vi phạm.(điều 30: Các biện pháp đối kháng (trã đũa hợp pháp) , điều 32: thực hiện hành vi do sức ép , điều 33: tình thế cấp thiết ) Do sự đồng ý của quốc gia bị hại.(điều 29: có sự đồng ý của quốc gia hữu quan) Trường hợp bất khả kháng.(điều 31: Hành vi bất khả kháng và hành vi do ngoại cảnh tác động) Biện pháp trả đũa là hành vi vi phạm của một quốc gia được thực hiện do có sự vi phạm pháp luật quốc tế của quốc gia khác. NHưng thực hiện biện pháp này quốc gia phải thực hiện trên nguyên tắc vừa mức nếu vượt quá giới hạn của biện pháp trả đũa thì việc miễn trách nhiệm pháp lý sẽ không được đặt ra. Trường hợp tự vệ chính đáng sẽ không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế nếu như nó được tiến hành phù hợp với Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Như năm 1979 Trung Quốc tấn công biên giới Việt Nam, Việt Nam đem quân tấn công lại, hành vi tự vệ chính đáng của Việt Nam trong trường hợp này không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế. Trường hợp bất khả kháng, quốc gia hoàn toàn không có khả năng thể hiện ý chí của mình về việc thay đổi tình thế, đó là những trường hợp do thiên tai hay sự cố làm cho quốc gia không thể thực hiện được các cam kết của mình. Ngoài ra quốc gia được miễn trách nhiệm pháp lý quốc tế trong trường hợp hành vi của quốc gia nhìn từ góc độ các quy phạm pháp luật quốc tế chung là vi phạm pháp luật quốc tế song việc thực hiện hành vi đó được thực hiện trên cơ sở được sự đồng ý của quốc gia hữu quan. 4 Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế: 4.1. Cơ sở xác định trách nhiệm của tổ chức quốc tế: Định nghĩa: Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế là trách nhiệm phát sinh từ việc các tổ chức quốc tế này vi phạm các nghĩa vụ quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế và trong các nguồn pháp luật khác. Cơ sở pháp lý: Điều ước quốc tế về thành lập tổ chức quốc tế. Điều ước quốc tế về nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ kể cả mặt trăng và các hành tinh năm 1967. Công ước về trách nhiệm quốc tế đối với thiệt hại do phương tiện bay vũ trụ gây ra. Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân năm 1963. Công ước Brucxen về trách nhiệm của người tác nghiệp các tàu hạt nhân năm 1962 Cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế: Tổ chức quốc tế và các nhân viên của tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của điều ước thành lập tổ chức, các điều ước quốc tế mà tổ chức là thành viên, quy định của pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật của quốc gia, nơi tổ chức quốc tế đóng trụ sở hoặc tiến hành hoạt động. Đây là cơ sở của trách nhiệm của tổ chức quốc tế. Tổ chức quốc tế gây ra thiệt hại cho các tổ chức, các quốc gia khác hoặc các thể nhân, pháp nhân. Thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế: Tổ chức quốc tế có thể gánh chịu trách nhiệm vật chất và trách nhiệm phi vật chất. Đối với trách nhiệm vật chất nguồn kinh phí để tổ chức quốc tế có khả năng thực hiện trách nhiệm pháp vật chất là các khoản đóng góp của các quốc gia thành viện . Đối với trách nhiệm vật chất, trong thực tiễn hoạt động hiện nay đã hình thành hai khuynh hướng thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế là: Xác lập trách nhiệm vật chất chung của tổ chức và các quốc gia thành viên. Xác lập trách nhiệm vật chất riêng của tổ chức quốc tế. Tổ chức quốc tế phải gánh chịu trách nhiệm đối với hoạt động của các cơ quan, thiết chế cũng như các nhân viên của tổ chức. Ví dụ : Liên Hợp Quốc đã kí các thỏa thuận với các quốc gia nơi có trụ sở của các cơ quan Liên Hợp Quốc về bồi thường thiệt hại do hoạt động của nhân viên quân sự và lực lượng vũ trang Liên Hợp Quốc gây ra cho công dân và tài sản của các nước này. Tổ chức quốc tế có thể là chủ thể đưa ra yêu cầu về bồi thường thiệt hại do quốc gia, công dân nước sở tại gây ra cho nhân viên và tổ chức đó. Ví dụ: Vụ kiện chống Israel vào năm 1949 khi những kẻ khủng bố của Israel đã giết đặc phái viên của Liên Hợp Quốc là huân tước Becnadot. Tóm lại, tổ chức quốc tế có thể chịu trách nhiệm pháp lý theo luật quốc tế cũng như luật quốc gia. II. CƯỠNG CHẾ TRONG LUẬT QUỐC TÊ 1. Lý luận chung về cưỡng chế trong luật quốc tế Cưỡng chế là một tính chất đặc chưng, cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo Lênin thì pháp luật sẽ không còn là gì nữa "nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không". Nếu như các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán được con người tuân thủ, chủ yếu nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và lên án của xã hội thì quy phạm pháp luật được nhà nước bảo đảm đảm bảo thực hiện bằng các công cụ quản lý nhà nước. “Cưỡng chế được hiểu là những biện pháp dùng quyền lực bắt buộc cá nhân hoặc tổ chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định (hay nói cách khác là phải thực hiện và phục tùng theo một khuôn mẫu nào đó”. Cưỡng chế được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (toàn án, cảnh sát, quân đội...) Cưỡng chế được dùng để: - Răn đe, ngăn chặn, trừng trị người vi phạm pháp luật. - Giáo dục sâu sắc đối với các chủ thể pháp luật. Quy phạm pháp luật là chuẩn mực để con người rèn luyện ý thức công dân, hình thành ý thức, tránh hành động tùy tiện, coi thường pháp luật. Theo đó ta có thể hiểu: “Cưỡng chế pháp lý quốc tế thực chất là việc truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế khi một hay một số chủ thể của luật quốc tế không thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình. Nghĩa là khi một chủ thể (ví dụ, một quốc gia) vi phạm luật quốc tế thì vấn đề trách nhiệm pháp lý đặt ra với quốc gia đó (họ phải có trách nhiệm bồi thường, lên tiếng xin lỗi công khai, khôi phục nguyên trạng, v.v… đối với quốc gia bị hại). Nhưng nếu họ không hoàn thành trách nhiệm pháp lý đó thì biện pháp cưỡng chế được áp dụng. Như ta biết luật quốc tế là một hệ thống pháp luật đặc biệt không có cơ quan lập pháp, hành pháp tư pháp như luật quốc gia. Các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế được hình thành thông qua sự thỏa thuận, đấu tranh, thương lượng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế và nó được biểu hiện bằng sự tuân thủ, tự nguyện kết hợp với các biện pháp cưỡng chế thi hành do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận áp dụng. Ví dụ: Khi quyết định các biện pháp nhằm bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế thì Hội Đồng Bảo An của LHQ chỉ thay mặt, nhân danh các quốc gia thành viên LHQ chứ không phải là cơ quan tối cao đứng trên các quốc gia để áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cụ thể Hôi đồng bảo an LHQ áp dụng biện pháp cưỡng chế vũ trang trong những trường hợp đặc biệt cần thiết. Biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù … làm biện pháp bảo đảm thi hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực mà chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế dưới hình thức riêng rẽ hoặc tập thể. Khi LQT không được một chủ thể thực thi theo đúng yêu cầu (vi phạm về nghĩa vụ thành viên hoặc vi phạm qui định của LQT), thì pháp luật sẽ ràng buộc chủ thể vi phạm vào những trách nhiệm pháp lý QT cụ thể để buộc chủ thể đó phải có nghĩa vụ khôi phục lại trật tự pháp lý QT đã bị xâm hại. Chủ thể của LQT áp dụng nhiều cách thức, biện pháp để bảo đảm thi hành luật như: sử dụng điều ước QT và các cách thức pháp lý khác, tận dụng các yếu tố chính trị, xã hội để tạo động lực cho sự thực thi LQT. Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản và chủ yếu trong việc thi hành áp dụng biện pháp cưỡng chế việc tuân thủ áp dụng pháp luật quốc tế bởi lẽ quốc gia là chủ thể cơ bản của luật quốc tế, xây dựng đa số các quy phạm pháp luật quốc tế và tham gia các quan hệ quốc tế nên dẫn đến là chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế nhiều nhất. Vì vậy có thể nói các quốc gia là những chủ thể áp dụng nhiều hơn cả các biện pháp cưỡng chế quốc tế so với các chủ thể khác của luật quốc tế. 2. Cơ sở pháp lý Thứ nhất: Theo khoản 7 điều 2 Hiến chương LHQ quy định “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên hợp quốc được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và không đòi hỏi các thành viên của Liên hợp quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chương; tuy nhiên, nguyên tắc này không liên quan đến việc thi hành những biện pháp cưỡng chế nói ở chương VII.” Những điều khoản quan trọng nhất có liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là việc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng những biện pháp an ninh tập thể cưỡng chế, được quy định cụ thể và chi tiết nhất ở chương VI và VII. Ta có thể xác định cơ sở pháp lý đầu tiên được quy định tại chương VII Hiến chương LHQ. Thứ hai: Luật quốc tế được hình thành thông qua sự thỏa thuận, đấu tranh, thương lượng của các chủ thể luật quốc tế và nó được biểu hiện bằng sự tuân thủ, tự nguyện kết hợp với các biện pháp cưỡng chế thi hành do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận áp dụng. Có nghĩa các bên khi tham gia kí kết các điều ước quốc tế sẽ thỏa thuận về những biện pháp cưỡng chế buộc chủ thể vi phạm không tự nguyện phải thực hiện. Từ đó rút ra cơ sở pháp lý thứ hai của cưỡng chế trong luật quốc tế là các điều ước song phương và đa phương mà chủ thể của luật quốc tế tham gia kí kết. 3. Các hình thức cưỡng chế Biện pháp cưỡng chế thể hiện dưới ba hình thức sau: 3.1.Cưỡng chế riêng lẽ: Trên bình diện quốc tế không có cơ quan cưỡng chế chuyên trách để tiến hành cưỡng chế khi có vi phạm mà những biện pháp cưỡng chế do chính chủ thể của luật quốc tế thực hiện dưới hình thức cá thể, riêng lẻ tức là chủ thể bị hại được quyền sử dụng những biện pháp cưỡng chế trả đũa hay biện pháp tự vệ đối với chủ thể gây hại cho mình (rút đại sứ về nước, cắt đứt quan hệ ngoại giao, bao vây cấm vận kinh tế, giáng trả…). Cấm vận hay trừng phạt kinh tế áp đặt lên một quốc gia là một biện pháp nhằm mục đích làm thay đổi các chính sách, chế độ chính trị tại quốc gia đó Ví dụ 1 : Cấm vận của Mỹ Như trong quan hệ giữa Mỹ - Iran thì Trong hơn 30 năm qua, Mỹ áp dụng chính sách cấm vận kinh tế chống Iran vì một số "tội" như sau: Iran "chống lại" tiến trình hòa bình Trung Đông, ủng hộ các phong trào Hồi giáo Hezbollah và Hamas, tiếp thu công nghệ hạt nhân và chế tạo tên lửa đạn đạo, có thái độ chống Mỹ, trong đó việc Iran theo đuổi chương trình hạt nhân bí mật được xem là trọng tâm của mọi vấn đề. Cụ thể từ năm 1979 đến nay Mỹ tiến hành các hoạt động cấm vận riêng lẻ như: - Mỹ đã đóng băng các tài sản tài chính của Iran - Kế đến, Mỹ cấm nhập khẩu dầu thô từ Iran nhưng vẫn cho nhập các sản phẩm dầu mỏ đã qua chế biến. Tiếp sau đó nữa, Mỹ cấm nhập khẩu toàn bộ sản phẩm tinh chế từ dầu mỏ và cả các sản phẩm phi dầu mỏ của Iran. - Vào giữa thập niên 80 thế kỉ XX, Mỹ cấm hoàn toàn việc xuất khẩu hang hóa sang Iran. - Mỹ ban hành Luật cấm vận Iran- Libya (ILSA, luật này ngày nay rút gọn còn ISA do Libya đã được rút tên) vào năm 1996, theo đó cấm đầu tư vào ngành năng lượng Iran. Ví dụ 2: Triệu hồi đại sứ Nhật Bản ngày 2-11/2010 nói rằng, Tokyo đang triệu hồi đại sứ nước này tại Nga về nước để phản đối việc Tổng thống Dmitry Medvedev đến thăm đảo Kurils mà hai bên đều tuyên bố chủ quyền. Ngày 5-11/2010, Thái Lan đã triệu hồi đại sứ của mình tại Phnom Penh để phản đối việc Campuchia bổ nhiệm cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra làm cố vấn kinh tế cho Thủ tướng Hun Sen và chính phủ Campuchia. Ví dụ 3: Cắt đứt quan hệ ngoại giao Ngày 03/03/2008  Ecuador và Venezuela đã đồng loạt cắt đứt quan hệ ngoại giao với Colombia nhằm phản đối việc quân đội Colombia tấn công vào căn cứ của tổ chức nổi dậy Các lực lượng vũ trang Cách mạng Colombia (FARC) bên trong lãnh thổ Ecuador. Ví dụ 4: Trả đũa Tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia, ngày 12/11/2009 Bộ ngoại giao Capuchia ra lệnh trục xuất thư ký thứ nhất của Đại sứ quán Thái Lan trong 48 giờ kể từ 5 giờ chiều cùng ngày. Thái Lan cũng hạ lệnh trục xuất thư ký thứ nhất của đại sứ quán Campuchia để trả đũa. 3.2. Biện pháp cưỡng chế tập thể Cưỡng chế tập thể là biện pháp mà quốc gia bị hại có quyền liên minh các quốc gia trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại các quốc gia gây hại cho mình. Thường thì biện pháp cưỡng chế tập thể được thực hiện thông qua Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc giao cho Hội Đồng Bảo An có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình và an ninh của các quốc gia trong khuôn khổ tuân thủ hiến chương Liên Hợp Quốc, có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế và trừng phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia vi phạm hòa bình và anh ninh thế giới. Biện pháp cưỡng chế của Liên hợp quốc Theo Điều 24 của Hiến chương Liên hợp quốc, các nước thành viên Liên hợp quốc trao cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế. Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược. Các quy định của Hiến chương liên quan đến HĐBA nằm trong các chương V, VI, VII, VIII và XII. Chế tài được áp dụng theo quyết định của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhằm loại trừ mối đe doạ đối với hoà bình, an ninh quốc tế, loại trừ sự vi phạm hòa bình và hành vi xâm lược. Để chấm dứt các cuộc xung đột vũ trang có nguy hại đến nền hoà bình thế giới hoặc có hành vi xâm lược. Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất trong hệ thống Liên hợp quốc có toàn quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhân danh Liên hợp quốc, trên cơ sở quyết định phù hợp với nguyên tắc nhất trí của các uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an. Hội đồng bảo an cũng vận dụng các thoả hiệp khu vực hoặc các cơ quan khu vực để thực hiện việc cưỡng chế dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bảo an, hoặc uỷ quyền cho các cơ quan đó thực hiện biện pháp cưỡng chế, trừ trường hợp quy định tại Điều 53, 107 - Hiến chương Liên hợp quốc. Đây là các biện pháp chế tài áp dụng đối với những nước thù địch trong Chiến tranh thế giới II và những nước tái diễn hành vi xâm lược chống các nước thành viên khác. Các biện pháp cưỡng chế kém phần hiệu quả do chính sách dung túng của các thế lực phản động . Hội đồng bảo an là cơ quan xác định sự đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định những biện pháp để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh thế giới10. Những biện pháp mà Hội đồng bảo an có quyền quyết định bao gồm: thứ nhất, Hội đồng bảo an yêu cầu các thành viên áp dụng các biện pháp kinh tế và các biện pháp khác (không bao gồm dùng vũ lực) như đình chỉ một phần hay toàn bộ những quan hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng không, bưu chính, điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện giao thông khác (cấm vận), cắt đứt quan hệ ngoại giao để ngăn chặn hoặc chấm dứt hành động xâm lược11. Thứ hai, Hội đồng bảo an thực hiện hành động quân sự đối với quốc gia có hành động xâm lược như dùng các lực lượng hải, lục, không quân nếu xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh thế giới. Hành động này còn bao gồm cả những cuộc thị uy, những biện pháp phong tỏa và những cuộc hành binh khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của những thành viên Liên hợp quốc thực hiện12. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực lượng vũ trang, sự viện trợ và mọi phương tiện phục vụ khác kể cả việc cho quân đội Liên hợp quốc qua lãnh thổ của mình khi cần thiết cho việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới13. Các quốc gia thành viên sẽ tổ chức một số phi đội không quân của nước mình sẵn sàng chiến đấu nhằm phối hợp thực hiện một hành động quốc tế có tính chất cưỡng chế14. Cơ quan giúp Hội đồng bảo an để chỉ huy lực lượng vũ trang của Liên hợp quốc là Ban tham mưu quân đội gồm tham mưu trưởng các nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an15. Ví dụ 1 : Trừng phạt tập thể trên phạm vi toàn cầu và sử dụng công cụ Nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ nhằm đạt cho bằng được mục tiêu là ép Iran phải ngưng chương trình hạt nhân. Tháng 6/2010, HĐBA LHQ ban hành Nghị quyết 1929 mở rộng thêm nhiều lĩnh vực trừng phạt Iran, như: cấm mọi giao dịch liên quan đến tên lửa đạn đạo, vũ khí, các giao dịch liên quan đến vũ khí quân dụng,... cấm đi lại đối với nhiều quan chức lãnh đạo cấp cao Iran, phong tỏa tài sản của các quan chức trong Lực lượng Vệ binh Cộng hòa (IRGC) ở nước ngoài,... cấm các hãng vận tải hàng hải, hàng không và ngành tài chính Iran hoạt động ở nước ngoài... Ví dụ 2: Ngày 21/11/2010 Các nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ra một tuyên bố chung chỉ trích vụ thử tên lửa của Triều Tiên và thông b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế.doc
Tài liệu liên quan