MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1. Khái niệm trách nhiệm xã hội 3
2. Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội 3
3. Phát triển bền vững – mục tiêu thực hiện TNXH của doanh nghiệp 5
4. Đạo đức và trách nhiệm xã hội 6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC THỰC HIỆN TNXH TẠI VIỆT NAM 8
1. Tình hình chung 8
2. Các công cụ quản lý 9
3. Một số thành công bước đầu 10
4. Những tồn tại còn nổi cộm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục 10
5. Một số ví dụ 18
LỜI KẾT 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8368 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạo đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành viên trong công ty và với các bên hữu quan.
Khía cạnh môi trường :
Môi trường sống trong lành là nhu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Tuy nhiên, cứ nhìn vào dòng nước đen và mùi nồng của sông Tô Lịch hay bầu không khí đầy bụi và khói của Hà Nội. Chúng ta sẽ thấy nhu cầu đầu tiên ấy đang bị hy sinh cho những nhu cầu vật chất khác. Phần lớn các chất thải không thể phân hủy là do hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo ra. Vậy TNXH đầu tiên của các doanh nghiệp là không kinh doanh trên sự tổn hại của môi trường.
3. Phát triển bền vững- mục tiêu thực hiện TNXH của các doanh nghiệp:
Khái niệm phát triển bền vững:
Phát triển bền vững là một khái niệm tương đối rộng và có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, một định nghĩa chung nhất đã được đưa ra cho khái niệm phát triển bền vững trong Báo cáo Brundtland như sau:
“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thế hệ tương lai”
Định nghĩa này mặc dù còn chung chung nhưng đã nhấn mạnh được hai yếu tố quan trọng nhất của phát triển bền vững. Đó là vấn nạn môi trường và mối tương quan của nó với sự phát triển kinh tế; và nhu cầu của sự phát triển đó đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Nội dung của chiến lược phát triển bền vững:
Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế- xã hội- môi trường.
Phát triển bền vững, về cơ bản bao hàm 3 phương diện: Môi trường bền vững, kinh tế bền vững và xã hội bền vững.
a. Môi trường trong phát triển bền vững: đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên này ở một giới hạn nhất định, cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đấtb. Xã hội của phát triển bền vững: cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.c. Kinh tế bền vững: đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh , sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
4. Đạo đức kinh doanh và TNXH:
Phân biệt đạo đức kinh doanh và TNXH của doanh nghiệp:
Khái niệm “đạo đức kinh doanh” và “TNXH” thường hay bị sử dụng lẫn lộn. Trên thực tế, khái niệm TNXH được nhiều người sử dụng như là một biểu hiện của đạo đức kinh doanh. Tuy nhiên, hai khái niệm này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Nếu TNXH là những nghĩa vụ một doanh nghiệp hay cá nhân phải thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác động tích cực và giảm tối thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội thì đạo đức kinh doanh lại bao gồm những quy định và các tiêu chuẩn chỉ đạo hành vi trong thế giới kinh doanh. TNXH được xem như một cam kết với xã hội trong khi đạo đức kinh doanh lại bao gồm các quy định rõ ràng về các phẩm chất đạo đức của tổ chức kinh doanh, mà chính những phẩm chất này sẽ chỉ đạo quá trình đưa ra quyết định của những tổ chức ấy. Nếu đạo đức kinh doanh liên quan đến các nguyên tắc và quy định chỉ đạo những quyết định của cá nhân và tổ chức thì TNXH quan tâm tới hậu quả của những quyết định của tổ chức tới xã hội. Nếu đạo đức kinh doanh thể hiện những mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên trong thì TNXH thể hiện những mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên ngoài.
Mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và TNXH của doanh nghiệp:
Đạo đức và TNXH là những vấn đề không thể thiếu trong kinh doanh. Rất nhiều cơ hội và lợi ích chiến lược sẽ đến khi doanh nghiệp xem đạo đức và TNXH là trọng tâm của các hoạt động kinh doanh. Sự tồn vong của doanh nghiệp không chỉ đến từ chất lượng của bản thân các sản phẩm - dịch vụ cung ứng mà còn chủ yếu từ phong cách kinh doanh của doanh nghiệp. Hành vi kinh doanh thể hiện tư cách của doanh nghiệp, và chính tư cách ấy tác động trực tiếp đến thành bại của tổ chức. Đạo đức kinh doanh, trong chiều hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược trong việc phát triển doanh nghiệp.
Xem đạo đức và TNXH là một phần thiết yếu của chiến lược kinh doanh, các doanh nghiệp cũng sẽ cảm thấy tự nguyện và chủ động hơn trong việc thực hiện. Khi đó, những vấn đề này không còn là môt gánh nặng hay điều bắt buộc mà là nguồn và cơ sở của những thành công. Rất nhiều cơ hội và lợi ích chiến lược sẽ đến khi doanh nghiệp xem đạo đức và TNXH là trọng tâm của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc tôn trọng đạo đức và TNXH của doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích chung cho nhân viên, khách hàng, đối tác và cộng đồng. Đây là những bộ phận quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Khi thực hiện tốt đạo đức và TNXH, doanh nghiệp sẽ nhận được sự ủng hộ trung thành và nhiệt tình của nhân viên, khách hàng và các đối tác này. Đây chính là điều kiện cơ bản nhất của mọi thành công. Ngày nay, đề làm cho khách hàng và cộng đồng thương yêu thương hiệu của công ty, các doanh nghiệp ngày càng ít giới thiệu công ty qua những sản phẩm hay dịch vụ, mà chỉ giới thiệu các thành tích trong việc thực hiện đạo đức và TNXH trong kinh doanh bằng cách nêu lên những nỗ lực của công ty để trở thành ông chủ tốt, đối tác tốt, công dân tốt và là người bảo vệ môi trường.
Chương II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC THỰC HIỆN TNXH Ở VIỆT NAM
Tình hình chung
Trước đây, yếu tố trụ cột gắn liền với mục tiêu của mọi doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, đều là yếu tố kinh tế, lợi nhuận. Nhưng ngày nay, các yếu tố cấu thành lợi nhuận không chỉ là yếu tố kinh tế, mà còn phải kể đến những yếu tố bên ngoài như môi trường, xã hội... Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, TNXH không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp có thể thực hiện TNXH của mình bằng cách đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử (Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Những người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp không thực hiện TNXH có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế... Theo đà phát triển chung, Việt Nam những năm gần đây cũng đã có sự tiếp cận ban đầu đối với khái niệm TNXH, đạt được một số bước tiến quan trọng trong việc đưa sự quan tâm của công chúng cũng như của các nhà chức trách tới vấn đề này lên một mức độ cao hơn.
Một cách chính thức, TNXH được giới thiệu vào nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Các công ty này thường xây dựng các bộ quy tắc ứng xử và chuẩn mực văn hóa kinh doanh có tính phổ quát để có thể áp dụng trên nhiều địa bàn thị trường khác nhau. Do đó, các nội dung TNXH được các công ty nước ngoài thực hiện có bài bản và đạt hiệu quả cao. Có thể lấy một số ví dụ nổi bật như chương trình “Tôi yêu Việt Nam” của công ty Honda- VietNam; chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ em tại các tỉnh miền núi của công ty Unilever; chương trình đào tạo tin học Topic64 của Microsoft, Qualcomm và HP; chương trình hỗ trợ phẫu thuật dị tật tim bẩm sinh và ủng hộ nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ của VinaCapital, Samsung; chương trình khôi phục thị lực cho trẻ em nghèo của Western Union…
Đối với các doanh nghiệp trong nước, một khi Việt Nam đã tham gia WTO có nghĩa là chúng ta đã tham gia vào một sân chơi quốc tế. Ở đó, tất cả các vấn đề phát triển thương mại đều phải gắn liền với những "luật chơi" mà nếu thành viên nào không thực hiện sẽ bị loại ra khỏi "cuộc chơi" ấy ngay lập tức. Chẳng hạn muốn thâm nhập thị trường đang nhắm đến, các Doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng được những yêu cầu về quan hệ lao động, môi trường, sức khoẻ, an toàn và bảo vệ môi trường... Thậm chí các đối tác thương mại sẽ tẩy chay sản phẩm hàng hoá của nước thành viên nào mà DN sản xuất ra sản phẩm đó không thực hiện đúng chuẩn mực về các TNXH. Các công ty xuất khẩu có lẽ là đối tượng đầu tiên tiếp cận với TNXH. Hầu hết các đơn hàng từ châu Âu- Mỹ- Nhật đều đòi hỏi các doanh nghiệp may mặc, giày dép phải áp dụng chế độ lao động tốt (tiêu chuẩn SA8000) hay đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (đối với các xí nghiệp thủy hải sản)… Ngoài ra, nhiều công ty tư nhân trong nước cũng đã nắm bắt vấn đề này khá nhạy bén. Một số công ty đã chủ động thực hiện và tạo được hình ảnh tốt đối với công chúng như các tập đoàn Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, ACB, Sacombank, Kinh Đô…
Các công cụ quản lý
Trên thực tế, không phải đến bây giờ, vấn đề TNXH của doanh nghiệp mới được đặt ra ở nước ta mà trái lại, ngay trong thời bao cấp, người ta cũng đã nói nhiều về TNXH của các xí nghiệp đối với nhà nước và người lao động, cũng như đối với cộng đồng nói chung. Nhưng trong những năm gần đây, TNXH được hiểu một cách rộng rãi hơn, không chỉ từ phương diện đạo đức, mà cả từ phương diện pháp lý. Những tác hại về môi trường do một số doanh nghiệp gây ra trong thời gian qua không những bị dư luận lên án về phương diện đạo đức, mà quan trọng hơn là cần phải được xử lý nghiêm khắc về phương diện pháp lý. Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động, chúng ta có Bộ Luật lao động năm 1994, được sửa đổi 2 lần vào năm 2002 (có nội dung thỏa ước lao động, làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội, trợ cấp, sa thải lao động) và năm 2006 (về nội dung tranh chấp lao động và đình công). Trong lĩnh vực môi trường, hoạt động thực hiện TNXH ở nước ta có bước tiến lớn sau khi Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được ban hành thay thế cho luật cũ năm 1994 hầu như không có hiệu lực. Tiếp theo, một loạt nghị định đã được ban hành kịp thời để hướng dẫn luật, đưa nội dung bảo vệ môi trường vào thủ tục đầu tư, thể chế hóa công tác quản lý Nhà nước về vật liệu xây dựng, thu phí nước thải công nghiệp, khai thác khoáng sản, chất thải rắn… Về bộ máy quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, chúng ta có Cục và Chi cục bảo vệ môi trường, trực thuộc Trung ương và các địa phương. Đáng chú , sau 1 năm kể từ khi Luật được ban hành, cuối năm 2006, Bộ Công an đã thành lập Cục cảnh sát môi trường (C36) và Phòng cảnh sát môi trường (PC36) ở các tỉnh, thành. Đến nay, cơ quan này đã điều tra và phát hiện hàng trăm vụ ô nhiễm gây tiếng vang trong dư luận. Để khuyến khích các doanh nghiệp tự thực hiện, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải thưởng “TNXH của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH của mình trong bối cảnh hội nhập.
Một số thành công bước đầu
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, TNXH của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ TNXH sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện TNXH đã thấy được những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình TNXH của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao dộng cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/ năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao. Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện TNXH trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho Nhà nước, đã đăng ký thực hiện TNXH dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động.
4. Những tồn tại còn nổi cộm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, vấn đề TNXH tại Việt Nam còn khá nhiều bất cập. Nhận thức của người dân về TNXH còn kém; quản lý nhà nước lỏng lẻo; văn bản pháp luật không sát thực tế (như số tiền phạt quá thấp) đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp dễ dàng lách luật, chối bỏ trách nhiệm đạo đức kinh doanh, không thực hiện một cách nghiêm túc TNXH của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính; không bảo đảm an toàn lao động, sản xuất; kinh doanh hàng kém chất lượng; cố ý gây ô nhiễm môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, Công ty Hyundai Vinashin (Khánh Hòa); các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội.
Nhìn chung, có thể rút ra một số vấn đề tồn tại mà Việt Nam đang phải đối mặt trong tiến trình thực hiện TNXH như sau:
Tăng trưởng nhanh và môi trường sinh thái luôn là hai mặt khác nhau của các nền kinh tế đang phát triển. Sau quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, nhiều nước đã phải trả giá về môi trường. Thực tế cho thấy, các công ty đa quốc gia hiện có thành tích lừng lẫy về thực hiện TNXH thì trước đây đa phần là các công ty có thành tích ô nhiễm môi trường lừng lẫy không kém. Bởi vậy, vấn đề hậu quả cho môi trường, xã hội sau phát triển kinh tế của những nước như Việt Nam là không thể tránh khỏi nếu không có những bước đi thông minh ngay từ bây giờ bằng việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn.
Hệ thống quy định pháp luật của nước ta chưa đủ độ chính xác và hợp lý cần thiết, và ngay cả khi quy định pháp luật có đủ, thì tính hiệu lực cũng quá thấp. Nhiều vụ ô nhiễm môi trường diễn ra hơn chục năm không bị phát hiện và xử lý, cho thấy cơ quan quản lý không làm hết trách nhiệm của mình. Có lẽ đây là vấn đề mấu chốt, quan trọng nhất chúng ta phải giải quyết.
Ý thức cộng đồng và thức bảo vệ quyền lợi của người dân rất thấp. Có thể nói, đứng trước các doanh nghiệp lớn. người dân địa phương cảm thấy đơn lẻ, yếu thế, thiếu sự hỗ trợ của chính quyền. Cơ chế khiếu kiện dân sự ở nước ta hầu như rất ít được sử dụng.
Việt Nam hầu như chưa có các thiết chế đại diện, trung gian. Đó là các tổ chức phi chính phủ NGOs, hiệp hội, nhóm lợi ích đóng vai trò rất lớn ở các nước phát triển. Cấu trúc trung gian tạo ra chi phí đại diện, nhưng xét tổng thể nó giúp giảm thiểu chi phí để những người dân, cộng đồng đơn lẻ đạt các mục đích xã hội của mình. Vai trò của các hiệp hội ở nước ta rất thấp. Những người đứng đầu thường là các quan chức về hưu muốn kéo dài thời gian làm việc. Hầu như không có sự hiện diện của hiệp hội người tiêu dùng trong các vụ việc ô nhiễm thực phẩm, môi trường vừa qua.
Dư luận có chiều hướng đánh đồng hoạt động từ thiện với TNXH của doanh nghiệp. Như đã đề cập ở trên, từ thiện chỉ là một phần nhỏ trong TNXH. Một doanh nghiệp đóng góp 1 tỷ đồng từ thiện, nhưng có thể gây ô nhiễm với chi phí nhiều tỷ đồng hơn thế. Cách thức tổ chức các buổi từ thiện thường mang tính PR mà không đi vào thực chất.
☻ Nguyên nhân và giải pháp
Theo nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, những rào cản và thách thức lớn nhất cho việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp bao gồm:
Nhận thức về TNXH trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn có sự khác nhau khá lớn.
Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc ứng xử (CoCs).
Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực TNXH doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây nhầm lẫn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như vấn đề làm thêm hay hoạt động của công đoàn.
Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng TNXH doanh nghiệp trên thực tế đang cản trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.
Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp dụng CoC không đem lại hiệu quả mong muốn. Ví dụ như mức lương, phúc lợi và các điều kiện tuyển dụng.
Những nguyên nhân được liệt kê ra trên đây có thể quy lại thành ba nguyên nhân chính, đó là nguyên nhân về nhận thức, nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý. Do đó, để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cần bám sát những tồn tại và nguyên nhân nói trên để đề ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là:
Việc làm quan trọng nhất và trước tiên lúc này là phải tăng cường thông tin, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng bản chất vấn đề " TNXH" và các Bộ quy tắc ứng xử (CoCs), nhất là doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách vĩ mô. Những quan điểm quan trọng nhất cần phải được mọi người hiểu rõ là:
Không nên hiểu khái niệm “TNXH” theo nghĩa "truyền thống". Tức là doanh nghiệp thực hiện TNXH như là một hoạt động tham gia giải quyết các vấn đề xã hội mang tính nhân đạo, từ thiện. Điều này dẫn đến người tiêu dùng trong nước không thể thực hiện hết quyền lợi của mình khi mua sản phẩm còn một số doanh nghiệp chỉ hô hào thực hiện TNXH để tạo danh tiếng.
Việc thực hiện các CSR là hoàn toàn tự nguyện và không mang tính bắt buộc do đó các doanh nghiệp không cần theo đuổi những chứng chỉ của một bộ tiêu chuẩn nào không cần thiết với hoạt động của doanh nghiệp.
Việc thực hiện các qui định thể hiện TNXH của doanh nghiệp trong các CoC là một khoản chi phí mang tính cất đầu tư của doanh nghiệp, được thực hiện trước và trong khi làm ra sản phẩm, chứ không phải một khoản đóng góp cuả doanh nghiệp mang tính chất nhân đạo, từ thiện được trích ra từ lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi đã bán sản phẩm.
Các CSR và CoC được hiểu đúng và thực hiện đúng phải đảm bảo quyền lợi cho cả ba bên : thứ nhất uy tín và tính cạnh tranh của doanh nghiệp được tăng lên, thứ hai quyền lợi và nhân phẩm của người lao động được đảm bảo tốt hơn, thứ ba là việc thực hiện pháp luật quốc gia được tốt hơn, tính cạnh tranh của nền kinh tế cao hơn, môi trường đầu tư tốt hơn.
Cần có các nghiên cứu cơ bản, khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp đã thực hiện và sẽ thực hiện các Bộ quy tắc ứng xử, nhất là doanh nghiệp tại các ngành đang tham gia vào xuất khẩu các mặt hàng chủ lực (giày da, dệt may, thủy sản đông lạnh) để phát hiện những thuận lợi cũng như rào cản, khó khăn, thách thức từ đó khuyến nghị các giải pháp xúc tiến thực hiện trong thời gian tới.
Nghiên cứu các cơ chế, chính sách hỗ trợ của nhà nước để các doanh nghiệp vào cuộc được thuận lợi. Đặc biệt trong quá trình thực hiện TNXH và CoCs, các doanh nghiệp cần phải có chi phí, thậm chí chi phí đầu tư khá lớn nhất là chi phí đầu tư để cải thiện các điều kiện vệ sinh và môi trường. Trong điều kiện cạnh tranh nhiều khi doanh nghiệp không chịu nổi, bởi vậy có thể nhà nước hỗ trợ cho vay từ các quỹ hỗ trợ phát triển, xúc tiến thương mại...với các chính sách ưu tiên, ưu đãi nào đó.
Hình thành nên kênh thông tin về TNXH đối với doanh nghiệp, nhất là cung cấp những thông tin cập nhật về CoCs, tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện TNXH và CoCs... Ở đây vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp (Hội dệt may, Hội giày da, Hội xuất khẩu hải sản...), Hội Công thương, Văn phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và một số bộ, ngành khác là rất lớn.
Đây là vấn đề rất lâu dài, tuy đối tượng doanh nghiệp thực hiện TNXH thường là các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu sang các thị trường lớn (EU, Mỹ, Nhật...) song trong tương lai các doanh nghiệp cung cấp các hàng hóa tiêu dùng trong nước cũng phải thực hiện TNXH. Bởi vậy, chúng ta phải bắt tay vào nghiên cứu kế hoạch dài hạn có tính chiến lược và lộ trình thực hiện TNXH của các doanh nghiệp Việt Nam trong 10, 15 năm tới phù hợp với phát triển kinh tế và quá trình hội nhập.
Cần xây dựng hội bảo vệ người tiêu dùng đủ mạnh. Về phía người tiêu dùng, đòi hỏi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ có chất lượng, an toàn và giá cả hợp lý; về phần mình, doanh nghiệp xác định mục tiêu tối hậu là lợi nhuận. Đòi hỏi của xã hội sẽ được doanh nghiệp đáp ứng thỏa đáng nếu việc đó đồng thời cho phép doanh nghiệp giải được bài toán lợi nhuận. Để doanh nghiệp cân nhắc giữa TNXH và lợi nhuận từ đó xác định cách ứng xử thích hợp, thì điều tiên quyết là doanh nghiệp phải nhận biết tường tận những đòi hỏi xã hội đối với mình, đặc biệt là những rủi ro doanh nghiệp phải đương đầu đối với việc theo đuổi lâu dài mục tiêu lợi nhuận trong trường hợp đòi hỏi ấy không được thỏa mãn. Rõ hơn, phải có ai đó nói với doanh nghiệp, bằng tiếng nói của người tiêu dùng, về những gì doanh nghiệp cần có để chấp nhận sự chi trả với thái độ tín nhiệm của người tiêu dùng. Người tiêu dùng muốn doanh nghiệp lắng nghe mình phải chứng minh cho doanh nghiệp mình là một đối tác có thế lực chứ không phải là người đi cầu xin hàng hóa với thái độ rụt rè, tự ti. Một người tiêu dùng riêng rẻ không đủ khả năng vật chất để xây dựng hình ảnh một đối trọng như thế trong mắt doanh nghiệp. Những người tiêu dùng phải liên kết với nhau thành một khối, một hội. Với khả năng phát động, tổ chức, hành động tập thể, đồng loạt của hội viên, hội có thể tiến hành các biện pháp phản ứng mang tính trừng phạt xã hội đối với doanh nghiệp thờ ơ, xao lãng thực hiện trách nhiệm. Điều đó tạo ra cái uy của hội, giúp những lời nhắc nhở, khuyến cáo của hội trở nên có trọng lượng, mang tính răn đe đối với doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần nghiên cứu và thực hiện đầy đủ các quy định của luật pháp Việt Nam như Bộ luật lao động, Luật bảo vệ môi trường. Đó là những quy định mà các doanh nghiệp nước ngoài, các chuyên gia quốc tế đánh giá cao và hầu hết các quy định đó phù hợp với các Công ước quốc tế, phù hợp với tiêu chuẩn TNXH, cơ bản đáp ứng yêu cầu quốc tế trong và ngoài nước. Thực hiện tốt các quy định của Luật pháp Việt Nam chính là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp khẳng định uy tín, thương hiệu của mình, tạo dựng sự thiện cảm, hình ảnh tốt trong mắt người tiêu dùng và các đối tác.
Cần tổ chức nhiều cuộc đối thoại, hội thảo nhằm thống nhất nhận thức về TNXH giữa các cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức trong nước và quốc tế liên quan để xây dựng những chính sách hợp lý cấp quốc gia, khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân quan tâm, triển khai các mô hình quản lý sát với TNXH doanh nghiệp.
Phát triển tư tưởng về TNXH trong cộng đồng doanh nghiệp, xã hội tại Việt Nam cần gắn với những nhu cầu, bức xúc, quan tâm của doanh nghiệp, xã hội. Các nhà quản lý cần được đào tạo nghiêm túc để có thể hiểu đúng về TNXH doanh nghiệp và chọn một mô hình phát triển bền vững.
Các chương trình, dự án giúp doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ tình hình thực tế của cộng đồng, doanh nghiệp và có những phương pháp tiếp cận phù hợp.
Đối với doanh nghiệp, khi thực hiện TNXH cần nghiên cứu và tạo cho mình một lối đi thích hợp nhất. Trong quá trình thực hiện nhiều khi chúng ta chưa triển khai thấu đáo, bài bản, có kế hoạch, lộ trình rõ ràng, thích hợp nên đôi khi bị lãng quên hoặc rời rạc. Do vậy, doanh nghiệp nên hoạch định cụ thể, hãy văn bản hóa các quy định về TNXH để cán bộ quản lý cũng như công nhân viên chức tham gia đóng góp, thường xuyên điều chỉnh và kiểm soát. Tham khảo những văn bản cũng như tiêu chuẩn quốc tế hiện hành để lựa chọn cho mình một hướng đi thích hợp. Trước khi lấy một loại chứng chỉ A,B...thì nên xem xét, xem nó có lợi gì cho doanh nghiệp. Qua tìm hiểu, có thể thấy đại đa số (không phải tất cả) các bộ CoCs của các bạn hàng đều tương thích với Việt Nam. Vì thế, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện tốt luật pháp Việt Nam, kết hợp cơ chế quản lý tốt, minh bạch để phục vụ yêu cầu kiểm tra, giám sát của bạn hàng, tức là đáp ứng các yêu cầu CoCs của đối tác, mà không cần một chứng chỉ nào. Và như vậy, cả ba phía đều có lợi: DN bán được hàng, đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh.doc