Tiểu luận Tránh khủng hoảng tài chỉnh quốc tế - Một chương trình cải cách chưa hoàn chỉnh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Có rất nhiều đề xuất quốc tế yêu cầu cần phải có một sự giám sát chặt chẽ các định chế tài chính có mạng lớn rộng. Mặc dù chưa có một đề cập rõ ràng nào về vấn đề này nhưng các Ngân hàng Trung ương luôn hiểu rằng sự phá sản của những tổ chức lớn sẽ gây ra rủi ro hệ thống; và trong trường hợp khó khăn như vậy thì các tổ chức này sẽ nhận được cứu trợ tài chính. Những gói cứu trợ là hình thực để chính phủ đảm bảo cho các khoản phát hành nợ bởi tổ chức này, đây cũng chính là lợi thế cạnh tranh đáng kể của các định chế tài chính: khả năng gia tăng nợ với chi phí thấp.

Theo quan điểm của tác giả, những việc làm này của chính phủ đã tạo điều kiện hình thành nên các định chế tài chính lớn. Điều này có thể thấy chính việc giải quyết khủng hoảng đã tạo nên các định chế tài chính lớn hơn trước. . Tại Hoa Kỳ, Bank of America đã tiến hành mua lại Countrywide và Merrill Lynch. Ở Châu Âu, chính phủ Bỉ đã bán Fortis Bank cho BNP-Paribas của Pháp. Ở Anh, tập đoàn ngân hàng Lloyds tái cấu trúc bằng cách xác nhập với Lloyds TSB và HBOS.

Để giải quyết hậu quả rủi ro đạo đức từ những khoản nợ cho vay đảm bảo, các nhà chức trách đã kêu gọi nên có sự giám sát chặt chẽ hơn đối với với các định chế tài chính lớn với một chỉ số vôn tiềm năng lớn hơn. Và vì các định chế này là yếu tố sống còn và đảm nhiệm chức năng quan trong trong nền kinh tế; do đó cần phải thiết kế hệ thống pháp lý để xem xét lợi ích của việc giảm thiểu tối đa chi phí vỡ nợ khi bị phá sản. Để giảm chi phí vỡ nợ của các ngân hàng lớn, có 3 phương án được đưa ra:

Thứ nhất: ngân hàng nên đóng cửa vài ngày (cuối tuần). Khi những người gửi tiền và khách hàng cần tiền nhanh thì việc giải quyết phá sản chắc chắn sẽ rất nhanh chóng. Tòa án giải quyết phá sản có thể hoán đổi nợ bằng vốn cổ phần một cách nhanh chóng trước khi ngân hàng mở cửa hoạt động lại.

Thứ hai: để tránh ảnh hưởng của hiệu ứng Domino (sự phá sản của ngân hàng này sẽ dẫn đến sự phá sản của ngân hàng khác) thì cần phải có được những thông tin đáng tin cậy của bên đối tác.

Thứ ba: để giảm rủi ro khi ngân hàng đó có quá nhiều khoản tiền gửi ngắn hạn không đảm bảo và không ổn định, thì một chiến thuật được đặt ra là phải theo đuổi và động viên những khách hàng muốn rút vốn đế ngân hàng tránh rủi ro mất khả năng thanh khoản.

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tránh khủng hoảng tài chỉnh quốc tế - Một chương trình cải cách chưa hoàn chỉnh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gửi của ngân hàng, các ngân hàng đã vận động hành lang thành công ở một số quốc gia cho phép một ngoại lệ của quy luật 10% này. Ví dụ tại Bỉ, quỹ thị trường tiền tệ có thể đầu tư lên đến 25% của tài sản trong Các chứng chỉ thị trường tiền tệ được phát hành bởi ngân hàng tài trợ (CBFA, 1991). Đối với các ngân hàng tài trợ, các ngoại lệ của quy tắc 10% rủi ro được sử dụng để duy trì sự ổn định và lành mạnh cho ngân hàng. Điều tranh cãi cho ngoại lệ này là, quy định của cấp có thẩm quyền, rủi ro của vỡ nợ ngân hàng phải là tối thiểu.  Đây là lại là một ví dụ về việc vận động hành lang và lách quy định có thể gây ra tổn hại đến sự ổn định hệ thống và tính lành mạnh của hệ thống tài chính nếu việc lo lắng về sự thanh khoản của ngân hàng bắt đầu chuyển thành thị trường tiền tệ để tài trợ cho thị trường. Một số người (Rochet, 2008) đang kêu gọi những nhà giám sát ngân hàng thực sự độc lập mà sự thành công của họ được đánh giá dựa trên việc duy trì sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Cùng một phương thức như Ngân hàng Trung ương đã được trao quyền độc lập tiến hành chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, tính độc lập sẽ được trao cho người giám sát ngân hàng để phát triển tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng.  Chúng ta phải nhớ rằng sự độc lập của Ngân hàng Trung ương được minh chứng bởi tranh luận rằng, do chu kỳ ngắn của các cuộc bầu cử chính trị, Bộ trưởng Bộ tài chính sẽ bị cám dỗ mở rộng nguồn cung cấp tiền tệ để lèo lái nền kinh tế trong ngắn hạn, trả giá là việc tăng lạm phát và tạo ra những căn bệnh cho nền kinh tế. Để giảm tác động của vận động hành lang hoặc những mục tiêu quá ngắn hạn của các nhà hoạch định chính sách công, tính độc lập đã được trao cho Ngân hàng Trung ương để kiểm soát lạm phát. Nên chăng giám sát ngân hàng cũng được tính độc lập tương tự? Báo cáo Larosière (2009, footnote 10, p 47) làm rõ về vấn đề này và mức độ của tính độc lập được trao cho người giám sát ngân hàng: "Như vậy các cơ quan giám sát phải được trao quyền và có thể thực hiện phán quyết độc lập của riêng mình (ví dụ, đối với cấp phép, kiểm tra, giám sát, xử phạt, và thực thi các biện pháp trừng phạt), mà không có cơ quan chức năng nào của ngành có quyền hoặc khả năng thay đổi. Hơn nữa, người quản lý phải ra quyết định của mình dựa vào mục tiêu công việc và không phân biệt đối xử. Tuy nhiên, sự độc lập giám sát khác với sự độc lập của Ngân hàng Trung ương (ví dụ trong quan hệ với chính sách tiền tệ), theo ý nghĩa là chính phủ (thường là Bộ trưởng Bộ Tài chính) vẫn chịu trách nhiệm về chính trị là duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, và sự thất bại của một hoặc nhiều tổ chức tài chính, thị trường hoặc cơ sở hạ tầng có thể gây những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế và tiền thuế của người dân ". Báo cáo Larosière chỉ ra rất rõ ràng về giới hạn độc lập của người giám sát ngân hàng: càng ngày giám sát ngân hàng càng cần được độc lập. Nhưng, không giống như chính sách tiền tệ, chính phủ thì chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Do hệ thống này thường được quy chụp là một sự điều tiết ngắn hạn mang tính chính trị, một trong những quan tâm của dư luận là có nên giao cho giám sát ngân hàng cùng một mức độ độc lập như là giao cho chính sách tiền tệ và ngân hàng trung ương hay không. Lưu ý rằng những quyết định để giải cứu một cơ quan nào mà liên quan đến tiền thuế của người dân thì vẫn nằm trong tay chính phủ. Các quyền độc lập được trao là quyền để thông qua các quy định và để thực thi giám sát với mục tiêu duy nhất là giữ gìn sự ổn định và tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Theo quan điểm của tác giả, không phải việc thiếu các quy định nhưng chính việc thực thi kém bởi người giám sát ngân hàng đó đã góp phần tăng cuộc khủng hoảng, việc tăng cường trách nhiệm của người giám sát ngân hàng là cần thiết. Sự độc lập với các mục tiêu rõ ràng - tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng - sẽ góp phần rất lớn làm tăng trách nhiệm này. Học thuyết “too big to fail” Có rất nhiều đề xuất quốc tế yêu cầu cần phải có một sự giám sát chặt chẽ các định chế tài chính có mạng lớn rộng. Mặc dù chưa có một đề cập rõ ràng nào về vấn đề này nhưng các Ngân hàng Trung ương luôn hiểu rằng sự phá sản của những tổ chức lớn sẽ gây ra rủi ro hệ thống; và trong trường hợp khó khăn như vậy thì các tổ chức này sẽ nhận được cứu trợ tài chính. Những gói cứu trợ là hình thực để chính phủ đảm bảo cho các khoản phát hành nợ bởi tổ chức này, đây cũng chính là lợi thế cạnh tranh đáng kể của các định chế tài chính: khả năng gia tăng nợ với chi phí thấp. Theo quan điểm của tác giả, những việc làm này của chính phủ đã tạo điều kiện hình thành nên các định chế tài chính lớn. Điều này có thể thấy chính việc giải quyết khủng hoảng đã tạo nên các định chế tài chính lớn hơn trước. . Tại Hoa Kỳ, Bank of America đã tiến hành mua lại Countrywide và Merrill Lynch. Ở Châu Âu, chính phủ Bỉ đã bán Fortis Bank cho BNP-Paribas của Pháp. Ở Anh, tập đoàn ngân hàng Lloyds tái cấu trúc bằng cách xác nhập với Lloyds TSB và HBOS. Để giải quyết hậu quả rủi ro đạo đức từ những khoản nợ cho vay đảm bảo, các nhà chức trách đã kêu gọi nên có sự giám sát chặt chẽ hơn đối với với các định chế tài chính lớn với một chỉ số vôn tiềm năng lớn hơn. Và vì các định chế này là yếu tố sống còn và đảm nhiệm chức năng quan trong trong nền kinh tế; do đó cần phải thiết kế hệ thống pháp lý để xem xét lợi ích của việc giảm thiểu tối đa chi phí vỡ nợ khi bị phá sản. Để giảm chi phí vỡ nợ của các ngân hàng lớn, có 3 phương án được đưa ra: Thứ nhất: ngân hàng nên đóng cửa vài ngày (cuối tuần). Khi những người gửi tiền và khách hàng cần tiền nhanh thì việc giải quyết phá sản chắc chắn sẽ rất nhanh chóng. Tòa án giải quyết phá sản có thể hoán đổi nợ bằng vốn cổ phần một cách nhanh chóng trước khi ngân hàng mở cửa hoạt động lại.  Thứ hai: để tránh ảnh hưởng của hiệu ứng Domino (sự phá sản của ngân hàng này sẽ dẫn đến sự phá sản của ngân hàng khác) thì cần phải có được những thông tin đáng tin cậy của bên đối tác. Thứ ba: để giảm rủi ro khi ngân hàng đó có quá nhiều khoản tiền gửi ngắn hạn không đảm bảo và không ổn định, thì một chiến thuật được đặt ra là phải theo đuổi và động viên những khách hàng muốn rút vốn đế ngân hàng tránh rủi ro mất khả năng thanh khoản. Tóm lại, tất cả các ngân hàng nên thực hiện những phép thử nhanh về khả năng vỡ nợ, bằng cách đặt mình vào tình huống vỡ nợ, nếu như không thể vượt qua được thì nên thay đổi cấu trúc vốn. Khi ngân hàng có nợ rủi ro thì cũng gây nên áp lực đối với thị trường vốn tư nhân. Có vẻ như những đề xuất gần đây về việc cần có sự giám sát chặt chẽ đối với ngân hàng sẽ là một bước sai lầm nếu như các ngân hàng ngày càng lớn mạnh và mang tính hệ hệ thống. Cuối cùng, một lời khuyên cho việc làm thế nào để hoàn thiện lịch trình cải cách quốc tế là liệt kê nhiều hơn nữa sự giám sát và cấu trúc hợp tác của các định chế tài chính quốc tế. Giám sát của các tập đoàn ngân hàng quốc tế Cả các thông báo của G20 (2008, 2009) và báo cáo của De Larosìere (2009) đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc giám sát các tập đoàn ngân hàng quốc tế. Yêu cầu này phải phải tạo nên hiệu quả quả từ những giám sát viên quốc gia để bảo đảm hơn nữa việc giám sát của các tập đoàn ngân hàng quốc tế. Sự sụp đổ của German Bank Herstatt vào năm 1974 đã thúc đẩy cho sự ra đời của Điều ước Basel (BCBS, 1983). Nó đòi hỏi, đối với các chi nhánh, quy định về vốn bởi nhà quản lý bản xứ của ngân hàng mẹ, và quy định về tính thanh khoản bởi nước sở tại. Tiếp sau đó, những cuộc sụp đổ của Banco Ambrosiano Holdings và BCCI đã kêu gọi lần nữa sự chú ý đến việc giám sát của các tổ chức quốc tế. Trong bối cảnh hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia, trước tiên cần nhận dạng hai vấn đề cụ thể. Hai vấn đề này liên quan lần lượt: 1. Sự hiện diện của các hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia; 2. Khả năng tài chính của một số nước để đối phó với các chi phí cứu trợ tài chính và các định chế tài chính lớn và phức tạp. Hai vấn đề đặc trưng của Ngân hàng quốc tế Vấn đề đầu tiên và là vấn đề chính yếu liên quan đến hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia và sự lo ngại sự cung ứng khả năng tài chính (một hàng hóa công) bởi các chính quyền quốc gia có thể không tối ưu. Bốn loại hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia tiềm tàng có thể được xác định như sau: i. Chi phí giám sát xuyên quốc gia, ii. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia của các cú sốc đến vốn chủ sở hữu các ngân hàng, iii. Chuyển giao tài sản xuyên quốc gia, iv. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia đến giá trị trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi. i. Chi phí giám sát xuyên quốc gia. Một ngân hàng nước ngoài mua một ngân hàng Hà Lan và chuyện đổi thành chi nhánh, theo quy định của EU thì quyền kiểm soát chi nhánh này sẽ thuộc về nước bản xứ, chi nhánh Hà lan sẽ chịu sự giám sát bởi các nhà lãnh đạo của ngân hàng mẹ nước ngoài. Tuy nhiên, để đảm bảo ổn định tài chính tại Hà Lan, các nhà lãnh đạo Hà Lan và Bộ tài chính Hà Lan buộc phải chi cứu trợ tài chính vì những lý do ổn định nội bộ, nhưng sẽ không có quyền giám sát chi nhánh của ngân hàng nước ngoài . Lý do để các công ty bảo hiểm giữ một số quyền giám sát các tổ chức (các chi nhánh và các công ty con) hoạt động trong nước là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là ngân hàng cho vay cuối cùng và chịu chi phí cứu trợ của nước sở tại. Đó là quy định của các nước sở tại áp dụng để hạn chế những rủi ro của các tổ chức tài chính và các ngân hàng hoặc bộ tài chính trong trường hợp có cứu trợ tài chính. Nói cách khác, quyền kiểm soát của nước bản xứ phải bổ sung một số hình thức kiểm soát của nước sở tại, miễn là chi phí cứu trợ tài chính vẫn còn trong nước. Quan điểm đã được Ủy ban Châu Âu công nhận một phần với tuyên bố rằng: “Trong tình huống khẩn cấp giám sát viên của nước sở tại có thể - thuộc vào quyền kiểm soát của Ủy ban – thực hiện bất kỳ biện pháp phòng ngừa nào” (Walkner và Raes, 2005, p.37). Lập luận này lần nữa xuất hiện trong British Turner Review kêu gọi sự giám sát hiệu quả của tất cả các tổ chức hoạt động tại Anh quốc. Như đã thảo luận ở trên, vậy một quyết định có thể được chuyển giao đến cấp Châu Âu hoặc ít nhất nên yêu cầu sự phối hợp giữa các quốc gia này. ii. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia của các cú sốc đến vốn chủ sở hữu các ngân hàng, Peek và Rosengren (2000) đã chứng minh trên thực tế tác động của sự sụt giảm vốn nền kinh tế Mỹ đến các ngân hàng Nhật Bản, đó là kết quả từ sự sụp đổ thị trường chứng khoán Nhật Bản vào những năm 1990. Các kênh giao dịch hoạt động thông qua việc cắt giảm trong việc cấp tín dụng ngân hàng. Một chi nhánh ngân hàng đa quốc gia, các nước sở tại sẽ kiểm soát khả năng thanh toán (thông qua các chính sách ký quỹ tổn thất tín dụng và sự xác nhận xác suất vỡ nợ trong khuôn khổ Basel II), nó có thể tác động vào nền kinh tế thực của nước ngoài. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, sự lo ngại tương tự đã được thể hiện bởi các quốc gia Trung và Đông Âu có hệ thống ngân hàng được kiểm soát rất rộng lớn bởi các ngân hàng nước ngoài. iii. Tác động xuyên quốc gia của sự chuyển dịch tài sản. Ở loại hình công ty con đa quốc gia, nước bản xứ vẫn nắm quyền giám sát công ty con, điều này có thể có rủi ro khi nước sở tại cấu kết với ngân hàng mẹ để chuyển giao tài sản cho ngân hàng mẹ. Rủi ro này đã được thảo luận ở các nước Trung và Đông Âu. Một ví dụ là trường hợp của Lehman Brothers Holdings. Ngân hàng đầu tư đã có thói quen tập trung các hoạt động tiền mặt ở New York. Trong trường hợp của Lehman Europe, đã lấy đi 8 tỷ $ trong số các doanh nghiệp Anh quốc vào thứ 6 trước khi nó sụp đổ. iv. Những ảnh hưởng xuyên quốc gia đến giá trị trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi. Sự tranh luận chung liên quan đến sự đa dạng hóa rủi ro trong một chi nhánh có trụ sở đa quốc gia, trong đó, bởi vấn đề đồng bảo hiểm, đã làm giảm giá trị của quyền chọn bán được trợ cấp bởi bảo hiểm tiền gởi (Repullo 2001, Dermine 2003). Có một sự xem xét về tính năng động tăng thêm để đưa vào tài khoản. Một ngân hàng đa quốc gia có thể hài lòng với mức độ đa dạng tổng thể của nó, trong khi mỗi công ty con có thể trở nên rất chuyên nghiệp trong rủi ro tín dụng địa phương. Điều này ngụ ý rằng các ngân hàng trong một quốc gia nhất định có thể thấy rằng mình ngày càng dễ bị sụp đổ do đặc tính của cú sốc. Người ta lập luận rằng, vì lý do danh tiếng, công ty mẹ sẽ cứu trợ các công ty con một cách có hệ thống như thể họ là các chi nhánh. Điều này có thể đúng trong nhiều trường hợp, nhưng sẽ có trường hợp nơi mà sự cân bằng của chi phí tài chính chống lại chi phí danh tiếng có thể không được thuận tiện như vậy. Quy luật tương xứng nguồn vốn có thể ít nghiệm ngặt trong cấu trúc chi nhánh có trụ sở. Điểm tổng quát hơn là đa dạng hóa nên được khen thưởng với tỷ lệ sự tương xứng nguồn vốn ít nghiêm ngặt. Hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia đặt ra câu hỏi liệu sự phối hợp của các can thiệp quốc gia sẽ được tối ưu không (Freixas, 2003). Điều này sẽ được thảo luận trong đánh giá của chúng ta về cơ cấu khối EU. Chi phí cứu trợ tài chính: Quá lớn? Quá phức tạp? Vấn đề thứ hai là cứu trợ tài chính của một ngân hàng lớn có thể tạo ra một gánh nặng rất lớn cho ngân sách hoặc hệ thống bảo hiểm tiền gửi của một quốc gia (Dermine 2000, 2006). Điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của các ngân hàng Icelandic có quy mô vượt xa khả năng bảo hiểm của quốc gia. Một vấn đề có liên quan đã nhận được nhiều sự quan tâm là một số ngân hàng quá phức tạp để sụp đổ. Hãy tưởng tượng một ngân hàng Châu Âu lớn với các hoạt động xuyên quốc gia và các hoạt động phi ngân hàng đáng kể (như bảo hiểm, quản lý tài sản) mà rơi vào thảm họa tài chính. Sẽ rất khó để đưa ngân hàng này vào trách nhiệm quản lý tài sản. Do mạng lưới phức tạp của các công ty con và những sự phức tạp về pháp lý khác nhau, sự không chắc chắn liên quan đến chi phí của một sự sụp đổ có thể sẽ cao và sự phức tạp này có thể tạo ra sự cám dỗ cho việc cứu trợ tài chính (“quá lớn và quá phức tạp để sụp đổ”). Hai vấn đề hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia có liên quan đến sự ổn định tài chính đã được phân tích: các hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia; và kích thước và độ phức tạp của việc cứu trợ tài chính. Bây giờ chúng ta xem xét sự thích hợp của cơ cấu khối EU hiện hành. Sự thích hợp của Khối EU Cơ cấu hiện tại của Khối EU để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính đã nhận được một sự chú ý lớn trong 10 năm qua (ECB, 2007b). Một loạt các ủy ban đã được tạo ra nhằm tạo điều kiện cho sự hợp tác và trao đổi thông tin, và một chỉ thị về việc giải thể tổ chức tài chính đã được chấp nhận. Những báo cáo của Brouwer (Economic and Financial Committee, 2000 và 2001) đã phê chuẩn cơ cấu khối EU hiện tại để đối phó với khủng hoảng tài chính. Nó được thông báo rằng một kế hoạch khẩn cấp để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính đã được sự đồng ý của các Bộ trưởng Bộ Tài chính thuộc khối EU, các Giám đốc Ngân hàng Trung ương và các nhà điều hành tài chính. Trong nội dung của Kế hoạch hành động các dịch vụ tài chính, chỉ thị về việc giải thể các tổ chức tín dụng đã được thông qua vào năm 2004, sau 16 năm kể từ khi nó được đề xuất lần đầu tiên. Nó nhất quán với nguyên tắc của nhà quản lý nước bản xứ. Khi một tổ chức tín dụng với các chi nhánh ở nước khác thất bại, quá trình giải thể sẽ phụ thuộc vào những thủ tục phá sản riêng lẻ của nước bản xứ. Lưu ý rằng, mặc dù được công nhận là một phần quan trọng của luật pháp để tránh các vấn đề phức tạp, nhưng nó lại rơi vào sự thiết hụt các giải pháp về vấn đề các công ty con. Chấp nhận nguyên tắc trách nhiệm giải trình, theo đó giám sát ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi, và vấn đề cứu trợ tài chính nên được giao cho cùng một quốc gia, điều này cho thấy rằng, trong hoạt động ngân hàng Châu Âu, có ba cách để phân bổ sự giám sát hoạt động ngân hàng: cho các nước sở tại, cho các nước bản xứ hoặc cho một tổ chức Châu Âu. Những tán thành và phản đối hay cả ba phương pháp tiếp cận đều được xem xét. Hệ thống thứ nhất: tiếp cận nước “sở tại”, tại New Zealand, ngân hàng đa quốc gia hoạt động với một cấu trúc công ty con. Ngân hàng Trung ương duy trì quyền điều hành trong việc giám sát ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi, và cứu trợ tài chính. Hệ thống này có ba hạn chế: Trước tiên, nó không cho phép các ngân hàng thực hiện đầy đủ các lợi nhuận hoạt động được mong đợi từ nghiệp vụ ngân hàng chi nhánh (Dermine, 2003 và 2006). Thứ hai, các tổ chức lớn được hình thành từ các công ty con do vậy các thủ tục phá sản là khác nhau. Chính điều này sẽ làm cho việc đóng cửa một ngân hàng quốc tế lớn sẽ trở nên phức tạp hơn. Trong một cấu trúc chi nhánh, các chỉ thị của Châu Âu về giải thể sẽ được áp dụng, phụ thuộc vào các thủ tục phá sản của một nước. Thứ ba, việc giải quyết cuộc khủng hoảng có thể bị cản trở, như đã thảo luận ở trên, bởi các vấn đề liên quan đến chuyển giao tài sản từ các công ty con cho công ty mẹ, hoặc liên quan đến vấn để chia sẻ thông tin Hệ thống thứ hai: tiếp cận nước “bản xứ”, phương pháp này hiện đang áp dụng đối với những chi nhánh xuyên quốc gia ở Liên minh Châu Âu. Có hai hạn chế: Thứ nhất, nhất là những quốc gia Châu Âu nhỏ như Ireland, Thụy Điển, Bỉ, Thụy Sĩ hoặc Hà Lan, có thể gặp phải khó khăn trong việc gánh chịu chi phí cứu trợ tài chính từ một ngân hàng quốc tế lớn. Sự tài trợ vốn từ Châu Âu có thể là cần thiết. Thứ hai, liên quan đến hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia. Quyết định đóng cửa một ngân hàng có thể ảnh hưởng đến những quốc gia khác. Báo cáo Larosiere là lời kêu gọi nghiêm trọng đầu tiên về việc thiếu sự phù hợp trong những quy định hiện tại để ngăn chặn và giải quyết khủng hoảng tài chính. Ngoài việc thay thế Hội đồng quản lý ngành ngân hàng (BSC) bởi Hội đồng rủi ro mang tính hệ thống Châu Âu (ESRC), báo cáo cũng đề xuất là phải chuyển dần thành Hệ thống quản lý tài chính Châu Âu (ESFS). Và việc chuyển đổi này sẽ diễn ra hai giai đoạn: Giai đoạn đầu (2009-2010), CEBS sẽ được chuyển thành tổ chức ngân hàng Châu Âu. Giai đoạn 2, hệ thống quản lý tài chính Châu Âu sẽ được hình thành. Nó bao gồm tổ chức của những người quản lý quốc gia, tổ chức ngân hàng Châu Âu mới được thành lập và những nhà kiểm soát từ ECB/ESCB. Một cấu trúc phù hợp cho việc hoạt động đúng đắn của thị trường tài chính phải giải quyết được 3 vấn đề: quy định, quản lý và quyết định để cứu trợ tài chính. Sự hình thành của ESFS sẽ giải quyết được 2 vấn đề đầu tiên, tức là về quy định và quản lý. Bài học của Liên minh Châu Âu với các tổ chức của những người quản lý thể hiện rằng nó đã không hoạt động một cách thỏa đáng ở một thời điểm của khủng hoảng. Việc kêu gọi của G20 cho việc hình thành một tổ chức của những nhà điều hành quốc gia đã bỏ qua kinh nghiệm này của EU. Ở Liên minh Châu Âu, trong báo cáo de Larosiere, mặc dù việc xúc tiến được làm để giải quyết 2 vấn đề đầu, tức là quy định và quản lý, một khoảng cách vẫn tồn tại với cứu trợ tài chính. Sự nghiêm trọng của khủng hoảng quốc tế đòi hỏi nhiều giải pháp tốt hơn cho vấn đề ngân hàng xuyên quốc gia. Phương pháp tiếp cận nước bản xứ cũng đã phục vụ tốt ở hệ thống ngân hàng Châu Âu cho đến nay, bởi vì quy mô của hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia bị hạn chế và các ngân hàng hoạt động ở nước ngoài chủ yếu là với các công ty con. Sự giám sát của nước sở tại đã tỏ ra hiệu quả. Khủng hoảng nhấn mạnh ở hai yếu tố sau: Thứ nhất là các hoạt động ngân hàng chi nhánh đã bắt đầu đạt tỏ ra giới hạn quyền kiểm soát của chính quyền sở tại. Thứ hai, trong các trường hợp thất bại, sự hợp tác quốc tế không đạt hiệu quả. Hai hạn chế của phương pháp tiếp cận nước bản xứ, như được thảo luận ở trên, đưa chúng ta đến yêu cầu lần nữa về một hệ thống đặt trụ sở ở Châu Âu về việc giám sát ngân hàng và bảo hiểm tiền gửi cho các ngân hàng quốc tế lớn. Hệ thống thứ ba: hệ thống Châu Ấu Một ngân hàng Quốc tế sẽ phải xác định cả về quy mô, vốn trong sự liên hệ với GDP của một quốc gia (chẳng hạn 3% GDP) hoặc bằng cách chia sẻ thị trường của mình ở nước ngoài, chẳng hạn 10%. Goodhart (2003) đã lập luận rằng một cơ quan giám sát Châu Âu không thể nào tồn tại miễn là chi phí cứu trợ tài chính do chính quyền trong nước chịu, người Anh có câu: “Ai trả tiền thì người ấy có quyền”. Không có sự phản đối với nguyên tắc trách nhiệm, nhưng sự đề nghị di chuyển giám sát hoạt động ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi, và cứu trợ tài chính vào EU được động viên đầu tiên bởi thực tế rằng, việc cứu trợ tài chính của các ngân hàng lớn từ các quốc gia nhỏ bé sẽ được chịu bởi những người nộp thuế ở Châu Âu, và, thứ hai đó là các hiệu ứng lan tỏa cần một sự phối hợp giải quyết. Một cuộc thảo luận về cứu trợ tài chính xuyên quốc gia sẽ nhanh chóng biến thành vấn đề tiền của người nộp thuế và thành một cuộc tranh luận hiến pháp. Một cuộc thảo luận về các ưu đãi của công dân để xác định biên giới quốc gia ở cấp quốc gia hoặc cấp Châu Âu là không thể và không nên tránh. Nó sẽ hướng dẫn sự lựa chọn trong số quyền kiểm soát nước sở tại hoặc trên toàn EU của các ngân hàng quốc tế. Ở cấp độ thế giới, thì dường như có sự kiểm soát rất mạnh mẽ các nước sở tại. Điều này là phổ biến bởi vì hoạt động ngân hàng quốc tế thường phát triển với các công ty con (Dermine, 2003) KẾT LUẬN: Sau cuộc khủng hoảng ngân hàng quốc tế, một loạt các đề xuất được đưa ra để củng cố chất lượng của việc giám sát ngân hàng. Chúng liên quan đến: tính thanh khoản, rủi ro kinh doanh, vốn và dự phòng, các chính sách bồi thường, tính rủi ro hệ thống và nhóm các nhà giám sát quốc gia. Mặc dù ý kiến của nhà chức trách là hữu ích, những đề xuất này ngừng lại ở sự thiếu sót trong việc giải quyết ba vấn đề chính: Làm thế nào để tăng cường trách nhiệm của các nhà giám sát? Làm thế nào để giới hạn học thuyết too-big-to-fail? Làm thế nào để giám sát các tập đoàn quốc tế? Đó là ấn tượng để quan sát quy định tiền khủng hoảng đó, như Basel II, đã yêu cầu các cuộc kiểm tra nhanh về rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường. Vấn đề giám sát trong khủng hoảng không phải là thiếu về quy định mà là thiếu về việc thực thi quy định và vấn đề giám sát có hiệu quả. Dường như vấn đề là làm thế nào để tăng cường trách nhiệm nhà giám sát ngân hàng. Vấn đề thứ hai là sự tồn tại của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại của chúng được xem như là lấy đi khoản trợ cấp, với một nhu cầu để bảo đảm cho các khoản nợ của chúng và, như một hệ quả, giám sát chúng chặt chẽ để hạn chế nguy cơ về đạo đức. Một sự thay thế sẽ được thiết kế một quá trình phá sản phù hợp cho các tổ chức này. Sư lo ngại phá sản sẽ làm tăng thêm động cơ riêng tư của các chủ nợ để theo dõi các rủi ro của ngân hàng. Cuối cùng, đề xuất G20 của nhóm các nhà giám sát sẽ không giúp gì nhiều nếu ta nhìn qua kinh nghiệm 10 năm gần đây của Liên minh Châu Âu. Nguyên tắc của “nước bản xứ” đã phục vụ tốt cho sự hội nhập của hoạt động ngân hàng Châu Âu cho đến bây giờ bởi vì hầu hết các ngân hàng đã hoạt động xuyên quốc gia với các công ty con (được quản lý bởi các nhà cầm quyền nước sở tại). Hoạt động ngân hàng xuyên biên giới với các chi nhánh và các hiệu ứng lan tỏa gây ra bởi sự sụp đổ ngân hàng kêu gọi sự hợp tác Châu Âu. Và thêm nữa, như trường hợp minh họa đặc biệt của Iceland, các nước Châu Âu nhỏ có thể không có khả năng cứu trợ tài chính cho các ngân hàng quốc tế lớn của họ. Điều này đặt ra vấn đề chuyển giao chi phí cứu trợ tài chính, bảo hiểm tiền gửi, và sự giám sát ngân hàng của các ngân hàng quốc tế lớn đến tổ chức Châu Âu. Những đề xuất chính sách hiện thời tạm dừng sự thiếu sót biện pháp quản lý nhà nước xuất sắc. B. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: I. Thực trạng hệ thống tài chính Việt Nam: Cùng với cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Sau hơn mười năm cải thiện hệ thống tài chính, các bộ phận cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành tương đối đầy đủ, mặc dù mức độ phát triển của từng thị trường cấu thành là không giống nhau. Hệ thống các định chế về tài chính được phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Về quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính được thể chế hóa tường bước. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động của thị trường tài chính ngày càng được phối hợp một cách tốt hơn. Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua còn kém phát triển, chủ yếu vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối. Thị trường tiền tệ - Thị trường tiền tệ, theo Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là thị trường vốn ngắn hạn, là nới mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn dưới một năm. Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt động năm 1993); thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức đi vào hoạt động từ 10/1994; thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc bắt đầu vận hành năm 1995 và nghiệp vụ thị trường mở chính thức vận hành vào tháng 7/2002. Chức năng của thị trường tiền tệ là tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, đảm bảo vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và là nơi để NHNN Việt Nam thực thi các công cụ chính sách tiền tệ. - Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Tham gia thị trường tiền tệ ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTránh khủng hoảng tài chỉnh quốc tế một chương trình cải cách chưa hoàn chỉnh và bài học kinh nghiệm cho việt nam.doc
Tài liệu liên quan