Năm 2005 đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của ngành dệt may VN. Đây là năm đầu tiên thực hiện việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch (quota) giữa các thành viên thuộc tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cũng là năm cuối cùng các sản phẩm dệt may VN được hưởng chế độ bảo hộ mậu dịch trước khi chúng ta hội nhập hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 2006.Có thể nói, chưa bao giờ dệt may VN phải đối đầu với cuộc cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Hạn ngạch vừa là yếu tố hạn chế nhưng đồng thời nó cũng bảo vệ cho các nhà xuất khẩu dệt may thông qua việc giới hạn lượng hàng dệt may tối đa mà mỗi quốc gia có thể xuất khẩu sang các thị trường lớn nhất thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada.Với việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch, các nước là thành viên của WTO có thể xuất khẩu với số lượng không hạn chế sang các thị trường trên, điều đó sẽ dẫn tới cán cân trong cuộc chiến trên thị trường xuất khẩu dệt may thế giới sẽ nghiêng hẳn về phía những nước có lợi thế về nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ như Trung Quốc hay Ân Độ.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2444 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Triển vọng và khả năng xuất khẩu mặt hàng may mặc của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dẫn, tôi đã chọn đề tài “Triển vọng & khả năng xuất khẩu mặt hàng may mặc của Việt Nam”.Đề tài này tập trung nghiên cứu về thị trường dệt may trong những năm qua, triển vọng hàng dệt may, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may VN trên thị trường thế giới...
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau :
Chương I: Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt may Việt Nam
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam.
Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi những thiếu xót.Hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để đề tài nghiên cứu này được hoàn chỉnh hơn.Xin chân thành cảm ơn !
Chương I: vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
I. Vai trò.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của VN từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách định hướng xuất khẩu của đất nước, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của VN để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Quá trình CNH ở nhiều nước, trong giai đoạn phát triển-dệt may thường đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội.
Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của nền kinh tế nó sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này.
Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nước công nghiệp phát triển, công nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng, phong phú của người tiêu dùng.
II. Đặc điểm
Về tiêu thụ:
Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế, hàng dệt may có những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán.Nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của thương mại thế giới hàng dệt may là một trong những yếu tố quan trọng cần thiết để tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm và đảm bảo xuất khẩu thành công trên thị trường quốc tế.Một số đặc trưng đó là:
-Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu dùng-người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục.Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm người trong các thị trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
-Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng.Do đó để tiêu thụ được sản phẩm, việc am hiểu các xu hướng thời trang là rất quan trọng.
-Vấn đề nhãn mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới.Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình.Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất, đây là vấn đề quan tâm trong chiến lược của sản phẩm vì người tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn rất coi trọng chất lượng sản phẩm.
-Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ.Phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp.Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng.
Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lưu ý trong buôn bán hàng dệt may vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm.
Về sản xuất:
Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao.Vì vậy, sản xuất dệt may thường phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình CNH, khi một nước trở thành nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vươn tới những ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận.Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nước kém phát triển hơn.Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển dịch về lợi thế so sánh.Như vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nước công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của VN đã có những tiến bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới.
3. Về thị trường:
Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ.Trước khi Hiệp định về hàng dệt may-kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lượng để hạnh chế hàng dệt may nhập khẩu.Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác.Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới.
Chương II: Thực trạng Xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam
I. Thực trạng & thị trường xuất khẩu của ngành dệt may Vn
Theo Hiệp hội Dệt may VN, trong quý 1 năm 2005, xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã giảm 8% so với cùng kỳ năm ngoái, riêng thị trường Đức đã giảm tới 27,3%, Anh giảm 26% và Pháp giảm 20%.Một số chủng loại hàng dệt may trước đây vốn là thế mạnh chủ lực của VN sang thị trường Mỹ nhưng nay cũng giảm tới 30-40% thực trạng này đã làm cho nhiều DN vừa và nhỏ có vốn đầu tư nước ngoài đứng trước nguy cơ thiếu đơn đặt hàng.Tại thị trường EU, hàng dệt may VN đã được bãi bỏ hạn ngạch nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng không tăng như dự báo ban đầu bởi VN vẫn bị áp đặt thuế nhập khẩu lên tới 12%.
Thực tế này đã khiến cho tăng trưởng xuất khẩu của toàn bộ ngành dệt may thấp hơn so với những năm trước, chỉ tăng khoảng 5,5% so với cùng kỳ năm 2004.
Trong tháng 4, các DN dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu 370 triệu USD, đưa tổng kim ngạch 4 tháng đầu năm đạt 1,320 tỷ USD bằng 25,4% kế hoạch cả năm.
II. Những khó khăn và thuận lợi của ngành dệt may VN:
1. Những thuận lợi:
Ngành dệt may VN được đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao nhờ các yếu tố :
+Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ, tuy nhiên đây không phải là yếu tố ổn định trong cạnh tranh.Khi trình độ khoa học kỹ thuật nâng cao, lợi thế về lao động sẽ không còn sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nữa.
+Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá: VN nằm trong khu vực Đông Nam á, vị trí của VN cũng thuận tiện cho việc phát triển giao lưu hàng hải quốc tế với các khu vực trên thế giới với bờ biển dài, có nhiều hải cảng nước sâu và có khí hậu tốt...
+Khả năng cung cấp nguyên liệu: VN có rất nhiều vùng có điều kiện khí hậu thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát triển cây bông.Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa truyền thống của VN đã được phát triển với việc áp dụng kỹ thuật mới, cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao, được ưa chuộng trên thế giới tuy sản lượng còn thấp.
+Khả năng đổi mới thiết bị công nghệ: Trang thiết bị ngành may đã có những thay đổi đáng kể với các thiết bị công nghệ mới của các nước tiên tiến, có thể sản xuất những mặt hàng chất lượng quốc tế.Phần lớn các doanh nghiệp may có quy mô vừa và nhỏ, có khả năng thích nghi linh hoạt, dễ dàng đổi mới trang thiết bị, công nghệ theo điều kiện biến động của thị trường.
+Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ: Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn và có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, được xếp vào lĩnh vực khuyến khích đầu tư phát triển.Nhiều chính sách thương mại và đầu tư đã có tác dụng thiết thực trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này.
+Khả năng cạnh tranh: Xuất phát từ những lợi thế trên, mặc dù sản phẩm dệt may của VN hầu như chưa được biết đến trên thị trường thế giới nhưng sản phẩm may xuất khẩu của VN được đánh gía cao về nhiều phương diện.Chất lượng sản phẩm tốt và ổn định, thời gian giao hàng được xem vào loại tốt nhất so với các nước Châu á.
2. Những khó khăn:
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dệt may VN đang phải đương đầu với nhiều khó khăn và thách thức từ nhiều phía:
-Không những phải nhập nguyên liệu, mà hầu hết các phụ liệu khác ngành may xuất khẩu cũng phải nhập ngoại, một phần do sản xuất phụ liệu trong nước chưa được chú trọng đúng mức, một phần do khách hàng nước ngoài yêu cầu phải sử dụng phụ liệu do bên họ cung cấp.Vì vậy, các doanh nghiệp thường rơi vào thế bị động do nguồn cung cấp nguyên phụ liệu chậm chễ, thiếu đồng bộ hay không đảm bảo quy cách phẩm chất.
-Trình độ thiết kế kiểu mẫu còn chưa phát triển.
-Về thị trường xuất khẩu, hàng dệt may cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, cả thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.
-Về cơ chế quản lý nhập khẩu: Bên cạnh những thay đổi đáng kể trong công tác quản lý XNK, nhiều hính sách biện pháp vẫn còn bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất-XNK hàng dệt may.
-Về chính sách phân bổ hạn ngạch: Việc phân bổ hạn ngạch theo nguyên tắc bình đẳng đảm bảo công ăn việc làm cho các cơ sở may xuất khẩu, tuy giải quyết được nhiều vấn đề về chính sách xã hội cũng dẫn đến nhiều vấn đề bất cập: Hạn ngạch phân tán trong khi khách hàng thường muốn ký hợp đồng với số lượng lớn với một DN, không phải ký hợp đồng với nhiều cơ sở nhỏ dẫn đến việc tăng ngoài dự kiến các chi phí giao dịch, chuyển tải về kho bãi và những khó khăn về kiểm tra chất lượng hàng hoá.Vì thế các DN VN có thể mất đi những khách hàng lớn, những hợp đồng có giá trị cao.
Có thể nói, sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn kém cạnh tranh hơn nhiều nước trong khu vực về nhiều mặt :
a, Về giá: Do hầu hết phải nhập khẩu từ nguyên phụ liệu đến công nghệ, thiết bị, mặt khác do VN chỉ làm những khâu cắt, ráp, đóng góp ... có giá trị gia tăng thấp, nên giá thành sản phẩm vẫn còn khá cao trong thị trường cạnh tranh.
b, Về cơ cấu sản phẩm: sản phẩm dệt may VN vẫn còn đơn điệu.Khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của yêu cầu thị trường, đặc biệt là với các trang phục cao cấp.
c, Về thị trường: VN đang tham gia vào thị trường thế giới khi thị trường đã khá định hình, phải cạnh tranh với các nước có cùng loại sản xuất xuất khẩu nhưng có trình độ phát triển cao hơn, có tên tuổi và uy tín trên thị trường, lại được ưu đãi hơn trong các Hiệp định song phương hay đa phương về hàng dệt may với các nước nhập khẩu .
d, Về môi trường kinh doanh: Theo đánh giá của các nhà đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, VN kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nước ngoài.Thời gian cấp giấy phép đầu tư thường bị phụ thuộc vào nhiều cấp quản lý.Khó khăn trong việc chuyển đổi ngoại tệ để mua vật liệu từ nước thứ 3 trong khi nguồn cung cấp trong nước hạn chế và chất lượng không đảm bảo.
Bên cạnh các chính sách khuyến khích đầu tư, điều kiện cơ sở hạ tầng là một trong những nhân tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.So với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng của VN kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện: Các dịch vụ tài chính, ngân hàng kém phát triển, điều kiện giao thông vận tải kho tàng, bến bãi vừa thiếu vừa yếu kém, chi phí điện nước, liên lạc viễn thông cao,... Với mặt hàng dệt may, khối lượng nguyên liệu nhập khẩu cũng như xuất khẩu thành phẩm cần phải chuyển tải lớn thì các yếu tố trên càng trở nên quan trọng.
Tuy nhiên, VN cũng đang cố gắng khắc phục dần những yếu điểm của mình để đi lên hoà nhập cùng nhịp với thế giới và ngành dệt may VN cũng như hàng dệt may của VN cũng đang từng bước chuyển đổi cho phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Chương III: giải pháp phát triển xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam trên thị trường thế giới
I. Một số biện pháp chung
Năm 2005 đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của ngành dệt may VN. Đây là năm đầu tiên thực hiện việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch (quota) giữa các thành viên thuộc tổ chức thương mại thế giới (WTO) và cũng là năm cuối cùng các sản phẩm dệt may VN được hưởng chế độ bảo hộ mậu dịch trước khi chúng ta hội nhập hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm 2006.Có thể nói, chưa bao giờ dệt may VN phải đối đầu với cuộc cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Hạn ngạch vừa là yếu tố hạn chế nhưng đồng thời nó cũng bảo vệ cho các nhà xuất khẩu dệt may thông qua việc giới hạn lượng hàng dệt may tối đa mà mỗi quốc gia có thể xuất khẩu sang các thị trường lớn nhất thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada.Với việc bãi bỏ chế độ hạn ngạch, các nước là thành viên của WTO có thể xuất khẩu với số lượng không hạn chế sang các thị trường trên, điều đó sẽ dẫn tới cán cân trong cuộc chiến trên thị trường xuất khẩu dệt may thế giới sẽ nghiêng hẳn về phía những nước có lợi thế về nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ như Trung Quốc hay Ân Độ.
Cũng như các nước khác, dệt may VN sẽ phải cạnh tranh gay gắt với những người khổng lồ trên, thậm chí chúng ta còn bất lợi hơn so với một số quốc gia xuất khẩu hàng dệt may khác do chúng ta đang trong quá trình đàm phán và sớm nhất là phải đến cuối năm 2005, VN mới được gia nhập WTO.
Để đối phó với tình hình trên, một trong những giải pháp đầu tiên phải nghĩ tới để giải bài toán phát triển dệt may VN là tạo thế cân bằng giữa chiến lược hướng ngoại và chiến lược hướng nội thông qua việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại thị trường nội địa, vì trong những năm qua, các DN đã quá mải mê xuất khẩu mà chưa chú ý đúng mức đến thị trường đầy tiềm năng này.
Hiện nay, các sản phẩm dệt may nội đại đang được bảo hộ với thuế suất nhập khẩu khá cao.Chẳng hạn, mức thuế nhập khẩu sản phẩm từ các nước ASEAN đối với sợi là 15%, vải là 30%, quần áo là 35%.Với việc gia nhập đầy đủ vào AFTA kể từ 1/1/2006 tới đây, mức thuế nhập khẩu các sản phẩm trên sẽ phải giảm xuống còn tối đa 5%.Cũng tương tự như vậy trong tương lai gần, khi VN gia nhập WTO, các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan đối với mặt hàng dệt may sẽ phải dỡ bỏ và đó sẽ là điều kiện để hàng may mặc TQ vốn đã chiếm lĩnh tới 60% thị trường VN chủ yếu thông qua con đường trao đổi tiểu ngạch và nhập khẩu bất hợp pháp, tràn ngập thị trường nôi địa thông qua con đường chính ngạch.
Vì vậy, các DN dệt may VN cần phải nhanh chóng tận dụng quãng thời gian được bảo hộ còn lại để chuyển hướng kinh doanh, mở rộng thị phần trong nước, chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh khốc liệt hơn với hàng nhập khẩu trong thời gian tới.
Để làm được điều này, các DN cần phải nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh thông qua một số biện pháp chính:
1. Tăng cường đầu tư nghiên cứu thị trường nội địa: để lựa chọn sản xuất các sản phẩm phù hợp.Hiện nay, các DN dệt may VN còn để trống nhiều đoạn thị trường cho các sản phảm nước ngoài đặc biệt là của TQ mặc sức khai thác.
Nếu phân đoạn thị trường theo chủng loại sản phẩm thì hiện nay các sản phẩm may mặc VN bán trên thị trường nội địa còn hạn chế về chủng loại, kiểu dáng.Điểm qua các sản phẩm nổi bật trên thị trường có thể thấy chủ yếu các DN tập trung khai thác một số chủng loại sản phẩm như áo sơ mi các loại, quần áo dệt kim. áo gió...với số lượng mẫu mã, kiểu dáng hạn chế.Các chủng loại sản phẩm khác như chăn, drap, gối, đệm và các chủng loại quần áo khác hầu như bị bỏ ngỏ để hàng nhập khẩu của Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan chiếm lĩnh.Nếu ngoại trừ những mặt hàng chúng ta không thể sản xuất do quá bất lợi về chi phí sản xuất, thì phần còn lại là những đoạn thị trường trống mà các DN trong nước chưa khai thác.
Xét trên góc độ phẩm cấp của sản phẩm, có thể thấy trong thời gian qua chủ yếu chúng ta bán ở thị trường nội địa các sản phẩm có phẩm cấp trung bình, số lượng các sản phẩm cao cấp còn rất ít.Nhìn tổng thể, mặc dù các sản phẩm như áo sơ mi các loại có chất lượng vải cao hơn hàng nhập khẩu của TQ, nhưng lại thua kém về kiểu dáng, mẫu mã.Điều này thật khó hiểu vì rõ ràng việc chúng ta nghiên cứu thị trường nội địa sẽ dễ dàng hơn và chi phí cũng sẽ thấp hơn so với nước ngoài.Như vậy có thể thấy vấn đề ở đây là các DN chưa chú ý đúng mức đến việc nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của người dân hoặc tiến hành nghiên cứu chưa có hiệu quả.Một nghịch lý khác là cùng với thu nhập tăng nhanh, thị trường nội địa có nhu cầu ngày càng nhiều đối với các sản phẩm cao cấp nhưng lại ít được đáp ứng.Chúng ta đủ sức làm ra những sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của những thị trường khó tính như Nhật, Mỹ...nhưng lại không chú trọng đến việc sản xuất những sản phẩm cao cấp tương tự để đáp ứng nhu cầu trong nước.Kết quả là việc xuất hiện những khoảng thị trường trống để cho hàng hoá nước ngoài xâm nhập.
2. Xây dựng hệ thống kênh phân phối có hiệu quả:
Hiện tại, hệ thống kênh phân phối nội địa của chúng ta tổ chức sơ sài.Đại đa số các công ty dệt may VN tiêu thụ sản phẩm trong nước thông qua hệ thống các cửa hàng do chính họ quản lý trực tiếp hoặc thông qua các đại lý.Với tổ chức như vậy, việc phân phối các sản phẩm không đạt hiệu quả cao, mạng lưới phân phối không rộng.Do đa số các công ty hướng tới thị trường nội địa chưa lâu, phần lớn các sản phẩm xuất khẩu lại là may gia công, không phải quan tâm đến vấn đề tiêu thụ nên các công ty có ít khinh nghiệm trong việc phân phối sản phẩm.Việc đầu tư thiết lập một mạng lưới phân phối rộng rãi đòi hỏi chi phí đầu tư lớn về hệ thống cửa hàng, kho bãi, vận chuyển, bảo quản...nên các công ty vừa và nhỏ sẽ khó có thể chịu nổi.Hơn nữa việc các DN có ít kinh nghiệm trong vấn đề này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới hiệu quả của việc phân phối sản phẩm.Đối với loại sản phẩm có vòng đời ngắn như các loại quần áo, vải vóc...sự chậm trễ trong việc phân phối cũng sẽ gây ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ.
Một giải pháp cho vấn đề này là việc thiết lập các DN chuyên chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm dệt may (nhà phân phối).Với việc hình thành các nhà phân phối, các DN có điều kiện để tập trung vào lĩnh vực quen thuộc là sản xuất, hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn.Về phía các nhà phân phối, do đây là lĩnh vực hoạt động chuyên sâu của họ nên hệ thống các kênh phân phối sẽ được tổ chức và điều hành tốt hơn để thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, vì chính việc tiêu thụ sản phẩm gắn liền với doanh thu của họ.
Hiện nay chính là thời điểm thích hợp để thiết lập các nhà phân phối, vì việc xây dựng hệ thống phân phối đòi hỏi phải có thời gian.Các sản phẩm dệt may TQ đang vào nước ta chủ yếu thông qua con đường trao đổi tiểu hạn ngạch và nhập khẩu bất hợp pháp nên không thể xây dựng hệ thống phân phối rộng rãi.Một khi chúng ta gia nhập WTO, hàng rào bảo hộ về thuế quan bị dỡ bỏ, hàng dệt may TQ sẽ xâm nhập thị trường nội địa thông qua con đường nhập khẩu chính ngạch với số lượng lớn và các DN xuất khẩu TQ sẽ thiết lập hệ thống phân phối rộng rãi.Đến lúc đó, nếu chúng ta chưa có hệ thống phân phối hoặc hệ thống phân phối hoạt động kém hiệu quả thì chúng ta sẽ gặp bất lợi rất lớn trong việc cạnh tranh.
3. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm.
Chắc chắn sẽ không ít người tiêu dùng đặt câu hỏi:Tại sao 1 chiếc áo sơ mi Pierre Cardin lại có giá hàng trăm ngàn đồng?Phải chăng sản phẩm của P.Cardin có chất lượng gấp 7-8 lần?Câu trả lời hoàn toàn không phải như vậy.Một trong những lý do chính, P.Cardin là một thương hiệu nổi tiếng.Trong lĩnh vực may mặc-thời trang, VN cũng đã có một số thương hiệu được khẳng định như: May 10, may Việt Tiến, gấm Thái Tuấn, dệt kim Đồng Xuân, sơ mi An Phước...nhưng số lượng những thương hiệu như vậy còn quá ít.
Để có thể cạnh tranh mạnh mẽ với hàng dệt may nhập khẩu, đồng thời thúc đẩy việc xuất khẩu các công ty cần phải quan tâm và đầu tư đúng mức việc xây dựng thương hiệu cho riêng mình cũng như cho các sản phẩm dệt may VN nói chung.Xây dựng thương hiệu là một quá trình đầu tư, vì thương hiêu không đơn giản chỉ là một cái tên hay dấu hiệu mà là một sự cam kết về sản phẩm.Để xây dựng thương hiệu các DN dệt may VN có nhiều con đường đi.Hoặc là lựa chọn việc mua lại một thương hiệu quen thuộc hoặc xây dựng từ đầu một thương hiệu mới thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ đối với sản phẩm và đặt dấu ấn thương hiệu đến người tiêu dùng qua các chiến dịch truyền thông, quảng bá.Song song với quá trình xây dựng phải là quá trình bảo vệ thương hiệu bởi như đã nói ở trên thương hiệu gắn liền với cam kết của nhà sản xuất về chất lượng, dịch vụ sản phẩm.
II. biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
Trong chiến lược cạnh tranh phải nêu lên được những biện pháp có tính chiến lược - đó là những biện pháp để cạnh tranh lâu dài như chất lượng sản phẩm, uy tín... và cũng cần có những biện pháp cạnh tranh trước mắt như giá cả, mẫu mã, kiểu dáng, thiết kế...
1. Nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các loại sản phẩm-biện pháp có tính chiến lược.
Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng của sản phẩm là rất quan trọng cho nên cần phải lập kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kiến thức nâng cao năng lực của cán bộ.Cùng với việc nâng cao chất lượng hàng dệt may, thì cũng cần phải đa dạng hoá các loại sản phẩm nhằm mục đích mở rộng thị trường và thu hút khách hàng.
2. Thiết lập chính sách giá cả thích hợp
Giá cả là một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng.Để thu hút được khách hàng chính sách giá cả phải mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với thị trường.Tuy nhiên cần phải giữ vững 2 nguyên tắc:
+Kinh doanh có lãi.
+Đảm bảo được sự cân xứng tương đối giữa các sản phẩm và sự tương đương của giá trị đồng tiền ở các thị trường khác nhau trên thế giới.
Đối với những khách hàng khác nhau thì áp dụng những mức giá khác nhau và dùng chính sách giá để tạo cơ hội cho khách hàng mới có khả năng thâm nhập thị trường VN.Cũng như chất lượng của sản phẩm dệt may, giá cả cũng là một trong những yếu tố để khách hàng lựa chọn.Nếu DN nào có sản phẩm tốt, giá rẻ thì thành công trên thương trường, đẩy lùi được các đối thủ cạnh tranh.Đối với hàng dệt may VN nói riêng thì chính sách giá cả là một công cụ của Marketing hữu hiệu để thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
3. Nâng cao uy tín đối với khách hàng.
Uy tín là vấn đề mang tính chất sống còn đối với một DN.Chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, giá cả, dịch vụ...đối với khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến uy tín cho nên cần phải được coi trọng, dần dần cải thiện được hình ảnh tốt đẹp của DN trong mắt khách hàng.
4. Các giải pháp về mở rộng thị trường.
Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may VN hiện nay và cả trong những năm trước là tìm kiếm thị trường xuất khẩu.Để mở rộng thị trường xuất khẩu, cần tiến hành một số giải pháp đồng bộ sau:
-Hỗ trợ các DN trong tìm kiếm thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thị trường.
Marketing thị trường đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm của nhóm ngành hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang... Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như: tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm VN ở nước ngoài qua các hội trợ triển lãm...cung cấp thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm về kinh tế và xã hội, quy định, luật pháp, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan...cho các DN là hết sức cần thiết.
Các đại diện thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, còn có nhiệm vụ giúp DN trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài, nâng cao hiệu quả việc tham gia triển lãm, hội chợ.
-Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng: thu nhập, phân tích và thông tin cho các DN thành viên về xu thế mới, kiểu dáng, chất lượng vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thế giới, tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác.
Bên cạnh những giải pháp đã và đang thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm như tăng năng suất lao động, kiểm soát chi phí, giảm giá thành, tăng cường hợp tác các chuỗi liên kết, đổi mới công tác tiếp thị sản phẩm, các DN phải tự tìm ra những “thị trường ngách”, “thị trường khe”, tận dụng lợi thế từ những đơn hàng nhỏ, nhưng có giá trị gia tăng lớn.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan.Mỗi DN khi tham gia hoạt động trên thương trường dù ở bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào đều phải chấp nhận sự cạnh tranh như một yếu tố thúc đẩy phải cố gắng hết sức để tồn tại phát triển.
Luật đầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61579.DOC