I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG:
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
2.1. Định nghĩa, nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
2.2. Yêu cầu của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
3. Giai cấp và đấu tranh giai cấp:
3.1. Giai cấp
3.1.1. Định nghĩa
3.1.2. Nguồn gốc của giai cấp:
3.1.3. Đặc trưng của giai cấp:
3.2. Đấu tranh giai cấp
3.2.1. Định nghĩa
3.2.2. Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp:
3.2.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển xã hội
3.2.4. Các hình thức đấu tranh giai cấp:
II. NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
1. Đặc thù của vấn đề giai cấp ở Việt Nam
2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay:
III. NHẬN THỨC RÚT RA TỪ NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA
15 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Triết học - Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biến; Hai là, phát triển là một quá trình “tự thân”, “tự thân” phát triển
Sự liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động và phát triển. Do đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối liên hệ hữu cơ với nhau và đều là cơ sở, nền tảng của phép biện chứng duy vật, trong đó có nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
Định nghĩa, nội dung của nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của phép biện chứng Macxit. Nó đòi hỏi phải xem xét các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy theo quan điểm: “Một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào”
Theo triết học duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng của thể giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. Bởi vậy, không chỉ nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau đó.
Sự vật trong thể giới khách quan bao giờ cũng tồn tại dưới dạng những cái cụ thể, luôn gắn với những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể nhất định. Khi những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể thay đổi, sự vật cũng biến đổi, những tri thức phản ánh sự vật đó cũng phải biến đổi theo. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Không có chân lý trừu tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Lịch sử phản ánh tính biến đổi trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Do vậy, nghiên cứu sự vật, hiện tượng cần có quan điểm lịch sử - cụ thể.
Yêu cầu của nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi trong quá trình nhận thức và cải tạo sự vật, hiện tượng phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
Một là, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể trong đó nó tồn tại. Biết phân tích cụ thể một tình hình cụ thể.
Chân lý được hình thành bao giờ cũng dựa trên sự phân tích và khái quát những điều kiện lịch sử - cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng diễn ra. Vì vậy, bất cứ một tri thức trừu tượng nào tách khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể đều trở nên trống rỗng. Với nghĩa đó V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, mọi chân lý trừu tượng đều sẽ trở thành một lời nói suông, trống rỗng nếu người ta đem áp dụng nó vào bất cứ tình hình cụ thể nào.
Trong tác phẩm Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của đồng chí Tờrốtxki và Bukharin, V.I.Lênin đã phê phán Bukharin không phân tích toàn bộ lịch sử cuộc tranh luận trong thực tiễn lúc bấy giờ, điều mà chủ nghĩa Mác, logic biện chứng đòi hỏi tuyệt đối phải làm, và ông chỉ ra rằng: “Muốn đặt vấn đề đó một cách đúng đắn thì phải chuyển từ những khái niệm trừu tượng trống rỗng sang cái cụ thể, tức là sang cuộc tranh luận hiện nay”. Đó là, trong thời kỳ chuyên chính vô sản, Đảng – đội tiên phong trực tiếp nắm chính quyền, do đó công đoàn phải là trường học chủ nghĩa công sản, trường học quản lý kinh tế.
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin bắt tay vào việc vạch ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết, một nước tư bản phát triển trung bình, còn lạc hậu về kinh tế, đơn độc trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản thế giới, thù trong, giặc ngoài, chiến tranh liên miên đã buộc phải áp dụng nhiều biện pháp kinh tế thời chiến với mong muốn đưa nước Nga tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Và cũng xuất phát từ thực tế lịch sử ấy, V.I.Lênin đã phát hiện ra rằng, Chính sách cộng sản thời chiến, một mặt nhằm bảo đảm chiến thắng thù trong, giặc ngoài; mặt khác, sự kéo dài quá mức Chính sách cộng sản thời chiến khi Chiến tranh kết thúc đã dẫn nền kinh tế nước Nga Xôviết tới bờ vực thẳm. Trong bối cảnh đó, với một nhãn quan chính trị sắc bén, với một sự táo bạo dám vượt lên chính mình, V.I.Lênin đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga thay đổi một cách căn bản quan niệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP). Tư tưởng đó không phải là cái từ óc nặn ra một cách đơn thuần, không phải là cái có sẵn trong sách vở, mà là xuất phát từ thực tiễn đời sống, từ sự sáng tạo của hàng triệu, triệu quần chúng nhân dân, từ sự phân tích cụ thể một tình hình cụ thể.
Hai là, vận dụng một nguyên lý, một chân lý khoa học nào đó phải gắn với những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Nguyên lý, lý luận, mỗi chân lý khoa học chỉ phản ánh những mối liên hệ và quan hệ nhất định, trong từng thời điểm nhất định. Nếu thoát ly những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của nó thì chân lý có thể trở thành sai lầm.
Khi vận dụng những nguyên lý lý luận, những chủ trương, chính sách vào thực tiễn không được dừng lại ở những sơ đồ chung, những công thức và bài bản có sẵn, mà phải tính đến những điều kiện, những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của sự vận dụng, tránh dập khuôn, giáo điều, máy móc, phải xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử - cụ thể mà vận dụng một cách sáng tạo. Bởi lẽ, “Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”.
Đương thời các nhà kinh điển mácxít nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản ở các nước: khi vận dụng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin vào mỗi nước đòi hỏi “mỗi nguyên lý phải được xét theo quan điểm lịch sử; gắn với những nguyên lý khác; gắn liền với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử”.
Khi vận dụng những chủ trương, chính sách của Trung ương vào các địa phương, các ngành đòi hỏi phải hết sức sáng tạo. Không nên coi những chủ trương, chính sách là những nguyên tắc bất di bất dịch, có thể áp dụng nguyên xi trong mọi hoàn cảnh, mọi thời gian và địa điểm, mà phải phân tích kỹ lưỡng mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện để vận dụng cho phù hợp.
Ba là, xem xét đánh giá một sự vật, hiện tượng, một quan điểm, tư tưởng, lý luận nào đó phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Sự vật, hiện tượng, một quan điểm, tư tưởng, lý luận xuất hiện, tồn tại trong một điều kiện lịch sử - cụ thể nào đó. Do đó, khi đánh giá chúng phải gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể đó thì đảm bảo tính khách quan và chính xác. Có như thế mới tránh được sai lầm của chủ nghĩa hư vô về lịch sử, phỉ bang lịch sử.
Trong Bút ký triết học, V.I.Lênin đặc biệt nhất mạnh ý nghĩa của nguyên tắc lịch sử - cụ thể đối với việc trình bày lịch sử triết học. V.I.Lênin đã đồng ý với ý kiến cho rằng “để khỏi gán cho những người thời cổ một sự “phát triển” nào đó của các ý niệm của họ, dễ hiểu đối với chúng ta, nhưng trên thực tế chưa thể có ở họ”.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể có ý nghĩa trong việc xây dựng phương pháp khoa học trong nhận thức và đánh giá lịch sử.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không quy lịch sử về sự kể lể cái gì đã xuất hiện hoặc diễn ra khi nào và ở đâu, không xem xét lịch sử một cách giản đơn, mà trên cơ sở những mối liên hệ lịch sử làm nổi bật sợi dây logic của sự phát triển lịch sử, vạch ra quy luật vận động của lịch sử, từ đó hình thành phương pháp khoa học trong nhận thức và đánh giá lịch sử. Đồng thời, nó kiên quyết đấu tranh chống lại thái độ phủ nhận sạch trơn đối với lịch sử, bất chấp những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể có ý nghĩa trong việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa giáo điều trong nhận thức và vận dụng. Đặc trưng của chủ nghĩa giáo điều trong lịch sử là sự không thừa nhận tính quy định lịch sử - cụ thể của những tri thức khoa học. Họ phủ nhận tính tất yếu phải thay thế các luận điểm đã lỗi thời bằng những luận điểm mới phản ánh thực chất những sự thay đổi lịch sử đang diễn ra, về thực chất nhằm xuyên tạc bản chất của lịch sử. Do đó, cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa giáo điều trong nhận thức và trong đánh giá lịch sử.
Giai cấp và đấu tranh giai cấp:
Giai cấp:
Định nghĩa:
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin định nghĩa giai cấp như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Định nghĩa trên cho thấy:
Thứ nhất, nói tới những giai cấp là nói tới “những tập đoàn người to lớn” trong xã hội. Tính “đông đảo, to lớn” do có thể ở tầm phạm vi quốc tế như khi nói về giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Đây cũng là một chuẩn mực quan trọng để xác định trong một xã hội nhất định có những giai cấp nào.
Thứ hai, giai cấp là những tập đoàn người được phân biệt với nhau bởi địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự phân định giai cấp dựa trên cơ sở phân định địa vị trong hệ thống kinh tế - xã hội nhưng được phân tích cơ bản trên ba phương diện có quan hệ thống nhất với nhau là: sở hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức lao động xã hội, phương thức và quy mô thu nhập của cải. Trong đó phương diện quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định, còn trên phương diện phân phối của cải xã hội là biểu hiện rõ nét và dễ thấy nhất.
Thứ ba, thực chất của sự phân định giai cấp là xác định một quan hệ chiếm đoạt của tập đoàn người này đối với tập đoàn khác. Điều đó là do nguyên nhân phân biệt địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Nói cách khác, đó là sự hợp pháp hóa địa vị và sự chiếm đoạt lao động giữa tập đoàn này với tập đoàn người khác bằng một thể chế nhà nước. Và đó thực chất đối kháng giai cấp.
Từ đây, có thể thấy:
Một là, sự tồn tại giai cấp là một tất yếu lịch sử, do trình độ phát triển còn hạn chế của lực lượng sản xuất, và vì vậy là sự tồn tại tất yếu của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Hai là, sự tồn tại của giai cấp là khách quan nhưng nó không phải là hiện tượng vĩnh viễn của lịch sử nhân loại; xã hội loài người đã từng trải qua giai đoạn lịch sử không có giai cấp (xã hội thị tộc, bộ lạc) và cũng sẽ tất yếu phát triển đến xã hội không có giai cấp – đó là xã hội cộng sản tương lai.
Ba là, sự đối kháng trong chế độ kinh tế là nguyên nhân dẫn đến đối kháng giữa các giai cấp trong xã hội nhất định. Nói cách khác, nguyên nhân phát sinh giai cấp là từ chế độ kinh tế, từ cơ sở kinh tế của xã hội. Cuộc cách mạng xóa bỏ giai cấp là cuộc cách mạng không thể theo ý muốn chủ quan hay bằng sức mạnh bạo lực thuần túy, mà phải là một cuộc cách mạng kinh tế và mấu chốt của nó là phát triển lực lượng sản xuất đến trình độ xã hội hóa cao.
Nguồn gốc của giai cấp:
C. Mác khẳng định: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”.
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, dẫn tới khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác.
Nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Đặc trưng của giai cấp:
Giai cấp trong xã hội có 3 đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, các giai cấp trong xã hội khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất.
Thứ hai, các giai cấp trong xã hội khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý sản xuất.
Thứ ba, các giai cấp khác nhau về phương thức thu nhập của cải xã hội.
Đấu tranh giai cấp:
Định nghĩa:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng nguyên nhân đấu tranh giai cấp là do đối lập về lợi ích địa vị kinh tế của các giai cấp khác nhau. Thực chất đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Theo V.I.Lênin: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản (lợi ích kinh tế) đối lập nhau không điều hòa được. Ví dụ, đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ; đấu tranh giữa vô sản và tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa Đấu tranh giữa nông dân và công nhân (nếu có) trong chủ nghĩa xã hội, xét về bản chất không phải là đấu tranh giai cấp, vì lợi ích của công nhân và nông dân về cơ bản là thống nhất với nhau. Do vậy, có thể giải quyết bằng con đường thỏa hiệp, thỏa thuận, đàm phán
Gắn liền với đấu tranh giai cấp là liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp là một tất yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp. Những giai cấp, tầng lớp có lợi ích cơ bản không đối lập nhau, phù hợp nhau liên minh với nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy, trong quá trình của cuộc đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp đều tập hợp những lực lượng, những giai cấp, những tầng lớp khác nhau trong xã hội về phía mình. Cơ sở của sự liên minh này là sự phù hợp về lợi ích, có thể là cơ bản, lâu dài, có thể là không cơ bản và tạm thời.
Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp:
Trong xã hội có sự phân hóa giai cấp, giai cấp thống trị luôn tìm cách chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt toàn bộ của cải vào tay mình. Các giai cấp và tầng lớp bị trị không chỉ bị chiếm đoạt về của cải, mà họ còn bị chiếm đoạt về chính trị, xã hội và tinh thần.
Giai cấp thống trị luôn dùng mọi biện pháp và thủ đoạn để bảo vệ địa vị, duy trì các quyền lợi của họ. Công cụ chủ yếu của giai cấp thống trị để bảo vệ các quyền lợi của họ là sử dụng quyền lực nhà nước từ hệ thống pháp luật đến bộ máy cưỡng bức. Chính vì vậy, lợi ích của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đối lập nhau, tạo ra mâu thuẫn đối kháng. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp, bất cứ một xã hội nào còn tồn tại giai cấp “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển xã hội:
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực cơ bản của lịch sử từ khi có giai cấp. Thông qua đấu tranh giai cấp, quan hệ sản xuất mới được xác lập phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, giải phóng sức sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Đấu tranh giai cấp còn góp phần cải tạo xã hội, xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu, bảo thủ, tạo cơ sở cho cái mới cái tiến bộ nảy sinh và phát triển. Thông qua đấu tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, nghệ thuật, đạo đức được phát triển phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
Đáu tranh giai cấp cũng góp phần cải tạo giai cấp cách mạng, để trở thành giai cấp có đủ năng lực lãnh đạo đối với toàn xã hội.
Các hình thức đấu tranh giai cấp:
Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh kinh tế: Thông qua đấu tranh về những lợi ích kinh tế hàng ngày mà giác ngộ về lợi ích giai cấp. Tuy là hình thức thấp nhất, nhưng lại rất quan trọng, vì nó tạo môi trường thực tiễn, giúp giai cấp công nhân giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh giai cấp là đấu tranh tư tưởng lý luận: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, giai cấp vô sản là giai cấp triệt để cách mạng không phải vì đó là giai cấp cuối cùng của lịch sử, mà trước hết vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản; giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, cách mạng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo V.I. Lênin, giác ngộ giai cấp làm cho công nhân hiểu ra sứ mệnh lịch sử của mình thì phải tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng, giải phóng công nhân khỏi hệ tư tưởng tư sản và các tư tưởng không vô sản, đưa lý luận mácxít vào phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác.
Giai đoạn thứ ba của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị, đây là giai đoạn đấu tranh cao nhất: Nhiệm vụ cơ bản của đấu tranh chính trị là thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thiết lập nền chuyên chính mới và sử dụng chuyên chính đó để xây dựng xã hội mới. Lúc này, vấn đề giành quyền lực nhà nước được đặt ra một cách trực tiếp. Đấu tranh chính trị gắn liền với sự bùng nổ cách mạng xã hội. C. Mác cho rằng, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy chính quyền và thực thi dân chủ. V.I.Lênin cũng khẳng định: Chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người mácxít.
NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ TRONG VIỆC THỰC HIỆN ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đặc thù của vấn đề giai cấp ở Việt Nam:
Tại Đại hội lần thứ IV (12/1976), Đảng ta đã chỉ ra tính chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp giữa hai giai cấp tư sản và vô sản, giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo với xây dựng. Trong cải tạo có xây dựng và trong xây dựng có cải tạo, trong đó xây dựng là chủ yếu. Chúng ta vừa xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới “từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới; tạo ra cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới”.
Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng tiếp tục khẳng định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định trong các kỳ đại hội tiếp theo.
Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng đã chỉ ra nội dung, thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam, là “thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới hiện nay, mặc dù vấn đề “đấu tranh giai cấp” không được đề cập nhiều như trước đây, nhưng trên thực tế “ đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang tiếp tục diễn ra phức tạp”. Điều đó cho thấy tính chất gay go, phức tạp, lâu dài, gian khó của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay không chỉ ở nước ta mà trên phạm vi toàn thế giới.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay:
Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử trong xã hội có giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp trải qua các giai đoạn, phản ánh ba trình độ phát triển khác nhau của đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác, từ sự thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt tức thời đến nhận thức và hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử của giai cấp. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, đấu tranh chính trị là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp. Bên cạnh đó còn khẳng định vấn đề chính trị luôn gắn với sự vận động biến đổi của thời đại, được đặt trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Nghiên cứu về việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, nhất thiết chúng ta phải đứng trên quan điểm của nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Chỉ có đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời gian xác định thì chúng ta mới hiểu đúng những nội dung, đặc điểm của việc đấu tranh giai cấp, cũng như vai trò của việc thực hiện đấu tranh giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách khác, nhờ có quan điểm lịch sử - cụ thể, chúng ta có thể nhận ra những giá trị tích cực và hạn chế; mặt mạnh và mặt yếu của việc thực hiện đấu tranh giai cấp trong những điều kiện nhất định. Mỗi giai đoạn lịch sử, đấu tranh giai cấp được thực hiện với hình thức, tính chất và mức độ khác nhau.
Ở thời đại Bác Hồ, Người đã từng nói: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Ở đây ta có thể thấy tư duy của phương Đông, của Việt Nam (mà Bác Hồ là một đại diện – lúc bấy giờ Bác với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc), khác với châu Âu. Triết học ở phương Tây thiên về lý, duy lý, có lúc đơn thuần, duy nhất, cực đoan. Ở Việt Nam có một triết lý khác: có cả lý và tình. Trong cái xấu còn có thể tìm ra cái tốt, ở cái mạnh vẫn bộc lộ điểm yếu, trong âm có dương... Nguyễn Ái Quốc dẫn ra lý luận của Mác: “Sự tiến triển của xã hội phải trải qua 3 giai đoạn: chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản và trong mỗi giai đoạn ấy đều có đấu tranh giai cấp tuy có khác nhau”. Nhưng Nguyễn Ái Quốc lại cảnh báo: “Chúng ta phải coi chừng. Các dân tộc Viễn Đông có trải qua 2 giai đoạn đầu không?”. Nguyễn Ái Quốc không phủ nhận “đấu tranh giai cấp” ở châu Âu theo chủ nghĩa Mác, mà suy tính vận dụng chủ nghĩa Mác vào Việt Nam như thế nào để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
Theo mạch tư duy riêng của mình, Bác không định nghĩa cách mạng theo cách châu Âu là biến đổi bất ngờ và táo bạo trong cơ cấu kinh tế xã hội, là khởi nghĩa, nổi dậy, nổi loạn, bước ngoặt cơ bản, bước nhảy vọt bất ngờ từ một tình trạng chất lượng này sang một chất lượng khác, cuộc biến đổi lớn thông qua đấu tranh giai cấp... Trên cơ sở thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã định nghĩa ngay từ năm 1927 - trong Đường Kách mệnh: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Như vậy, làm cách mạng ở Việt Nam đâu nhất thiết theo cách hiểu của phương Tây?
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện đấu tranh giai cấp ở nước ta đã được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa trong các văn kiện Đại hội, Hội nghị. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã tiếp tục nhận định: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp”. Trong xu thế đó, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội đang ráo riết tiến hành mọi biện pháp và âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng và độc lập dân tộc của các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc nên việc thực hiện đấu tranh giai cấp để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ lợi ích của nhân dân là một tất yếu.
Trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay, nội dung của đấu tranh giai cấp ở nước ta có nhiều thay đổi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể:
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế. Thực hiện đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực kinh tế thực chất là để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển mọi tiềm năng để chuẩn bị cơ sở vật chất để xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin từng nói, nếu không có sự tăng lên nhanh chóng của lực lượng sản xuất thì chúng ta không có cơ sở vật chất để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất của đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế là củng cố, duy trì sự thống trị của quan hệ sản xuất xã hộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_triet_hoc_nguyen_tac_lich_su_cu_the_trong_viec_thu.docx