Tiểu luận Trình bày các phương pháp tham vấn

Erick Erikson tin rằng cá nhân có tiềm năng giải quyết cá xung đột của chính mình và hoạt động đầy năng lực ấy được hoàn thành bằng cách giải quyết các khủng hoảng xảy ra suốt đời của cá nhân ở những giai đoạn phát triển cụ thể.

 

Erikson chia quãng đời của một cá nhân thành 8 giai đoạn, mỗi giai đoạn được tượng trưng bằng một sự khủng hoảng riêng. Ông tin rằng việc xử lý mỗi cuộc khủng hoảng đem đến cho cá nhân một cơ hội để củng cố bản ngã và trở nên thích nghi hơn khiến họ có thể sống một cuộc sống thành công hơn. [(2); tr. 59-60]

 

- Cơn khủng hoảng 1: Lòng tin cậy hoặc ngờ vực

- Cơn khủng hoảng 2: Tự trị hoặc hổ thẹn và hoài nghi

- Cơn khủng hoảng 3: Óc sáng kiến hoặc mặc cảm tội lỗi

- Cơn khủng hoảng 4: Việc làm hoặc sự kém cỏi

- Cơn khủng hoảng 5: Bản sắc hoặc lẫn lộn vai trò

- Cơn khủng hoảng 6: Thân mật hoặc cách ly

- Cơn khủng hoảng 7: Sinh sản hay trì trệ

- Cơn khủng hoảng 8: Toàn vẹn cá nhân hay thất vọng.

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3927 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trình bày các phương pháp tham vấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự đề kháng và liên tưởng thông suốt Sự chuyển vai. Khi con người không còn đủ khả năng kiểm soát hữu hiệu một số tình huống của cuộc sống, các cơ chế tự vệ sẽ là những chiến lược cho phép Cái tôi bù trừ sự bất lực của mình một cách vô thức, bằng cách làm giảm thiểu stress và sự lo âu kèm theo. Những cơ chế tự vệ này thực tế nhằm tạo cho con người những khoái cảm đôi khi thực tế nhưng thường là tưởng tượng hoặc xa vời thực tế hoặc bằng phủ nhận thực tế, các ý nghĩ và các xung lực gây lo âu. [(1); chương.12; tr. 10] Các cơ chế bảo vệ được Freud nhận diện và được Thompson và Rudolph mô tả (1983) gồm có: Sự đè nén Sự phóng ngoại Sự tạo lập phản ứng Sự hợp lý hoá Sự khước từ Sự trí tuệ hóa Sự thu mình lại Sự thoái bộ Sự bộc lộ bằng hành động Sự bù đắp Sự phá bỏ Sự mơ mộng Điều hữu ích và cần thiết cho các nhà tham vấn là nên hiểu biết về các định nghĩa của tất cả các cơ chế tự vệ vì các cơ chế tự vệ đó được sử dụng như là cách ứng phó với sự đau đớn và âu lo (Thompson và Rudolph, 1983) [(2); tr.49] Học thuyết của Freud cho ta thấy rằng: Điều quan trọng đối với nhà tham vấn đương thời làm việc với trẻ em là cần nhận biết rằng khi sự căng thẳng thần kinh xảy ra gây nên âu lo hoặc xung đột nội tâm thì bản năng xung động và siêu ngã rơi vào tình trạng mâu thuẫn. [(2); tr. 47] Đánh giá: Dù học thuyết của Freud rất hữu dụng nhưng chúng ta không áp dụng phổ biến phương pháp phân tâm học, mà giúp đứa bé đạt sự thấy triệt bằng cách tự khám phá chứ không phải bằng sự giải thích của chúng ta. [(2); tr.51]. b. Anna Freud Anna Freud là con gái của S. Freud. A. Freud tìm kiếm những động cơ vô thức đằng sau trò chơi gợi trí tưởng tượng, vẽ đồ hoạvà vẽ tranh, giải thích trò chơi của trẻ cho trẻ khi mối liên hệ với trẻ được thiết lập (Cattanch, 1992). Đợi cho đến khi mối liên hệ với trẻ được thiết lập là điều chính yếu theo quan điểm của A. Freud. Bà chịu lao động vất vả để thiết lập nơi trẻ sự gắn bó chặt chẽ với bà và đưa trẻ vào một mối liên hệ thực sự tuỳ thuộc nơi bà. Bà tin rằng mối liên hệ đầy thiện cảm hoặc sự chuyển vai tích cực này với nhà trị liệu là điều kiện tiên quyết trong mọi việc cần phải làm với đứa trẻ (Yorke, 1982). [(2); tr.51-52] Các ý tưởng của A. Freud có thể hữu ích trong các trường hợp trị liệu mở và không hạn định về thời gian. Quan niệm của bà không thích hợp với tâm lý trị liệu ngắn hạn hoặc trong thời gian nhất định, trong đó không thể thực hiện mối quan hệ tuỳ thuộc dài hạn với trẻ. [(2); tr.53-54]. c. Melanie Klein Bà triển khai lý thuyết của Freud về cách liên hệ với đối tượng (Klein, 1932). Trong khi A. Freud tin rằng điều chính yếu là để cho mối liên hệ nảy nở giữa trẻ em và nhà tham vấn trước khi sử dụng những lời giải thích thì Klein lại nhấn mạnh việc sử dụng ngay lời giải thích mà không đợi sự phát triển mối liên hệ này (Catranach, 1992). Bà nhấn mạnh lý thuyết về các mối liên hệ với đối tượng và ý nghĩ của đối tượng chuyển tiếp. [(2); tr. 53-54]. Quan điểm trị liệu của Melanie Klein co vẻ thích hợp hơn với trị liệu ngắn hạn hoặc trong một khoảng thời gian nhất định. d. Donald Winnicott. Winnicott tin rằng trẻ em lớn lên và phát triển thông qua việc sử dụng các đối tượng chuyển tiếp và cũng thông qua kinh nghiệm về không gian chuyển tiếp giữa người mẹ và đứa con (Cattanach, 1992). Không gian chuyển tiếp là không gian trong đó người mẹ chơi với con trong quá trình giúp con rời xa mẹ để làm thành một thực thể riêng. Theo Winnicott, việc trị liệu đối với trẻ giống như không gian chuyển tiếp. Với một số trẻ em thì các buổi tham vấn và mối liên hệ với người điều trị tự nó cũng đủ giúp trẻ vượt qua các vấn đề vô thức. [(2); tr.54]. e. Carl Jung. Theo các tác giả biên soạn (2), phần đóng góp quan trọng nhất trong công trình của Jung là việc ông triển khai ý tưởng của Freud về vô thức. Jung (1933) gợi ý là có một vô thức tập thể hình thành từ những động cơ nguyên thuỷ của loài người. [(2); tr.55] Không giống vô thức cá nhân, vô thức tập thể không phải là những cái đạt được bởi cá nhân. Tuy thế, tâm thần của mỗi người dường như có nhiều đặc điểm không thể phân biệt được với tâm thần của những người khác bởi vì mọi tâm thần đều có một cơ sở hoặc nền tảng chung. [(4); tr.74]. Jung thu nhỏ vai trò của vô thức cá thể vì lợi ích của vô thức tập thể bẩm tính và truyền qua các thế hệ từ hàng triệu năm qua. Vô thức tập thể chứa đựng nhất là các mẫu hình cổ sơ là những hình tượng ban sơ thể hiện chủ yếu trong các giấc mộng đưa con người đến phản ứng đối với một số tình huống theo cung cách riêng cho tất cả mọi người thuộc các nền văn hoá. [(1); chương.10; tr.32]. Theo Jung, sự cân bằng nhân cách chỉ có thể thực hiện được sau một quá trình tâm lý đã thành thục mà ông gọi là cá biệt hoá cho phép thực hiện sự nhận biết và sự thống hợp mọi mặt của bản thân chúng ta. [(1); chương.10; tr.33]. f. Margaret Lawenfeld. Margaret Lawenfeld chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Jung, năm 1925 bà bắt đầu làm việc với trẻ em bằng cách dùng các biểu tượng trong khay cát để khuyến khích cách diễn đạt không dùng lời vốn ít bị chi phối bởi tư duy duy lý. Lawenfeld viết rằng phương pháp này phát sinh từ các nỗ lực của bà nhằm tìm cách giúp trẻ nói mà không dùng ngôn ngữ (Schaefer và O’ Conner, 1983). Công trình khay cát là cách giúp trẻ kể chuyện về mình có thể bằng lời hoặc không bằng lời. [(2); tr.55]. g. Alfred Adler. Ban đầu Adler là môn đệ của Freud nhưng sau đó ông tách ra để phát triển học thuyết riêng của mình. Ông thu hẹp đáng kể tầm quan trọng của nhục dục trong sự phát triển và nhấn mạnh hơn đến “ ý muốn có quyển lực” mà theo ông sẽ trở thành xung năng nền tảng có mặt ở mỗi con người từ lúc sinh ra. Nhu cầu quyến rũ bằng mọi giá, những vụ đến muộn có hệ thống hoặc hơn nữa những phàn nàn lặp đi lặp lại về tình trạng sức khoẻ, theo Adler là những “chiến thuật cá nhân” khác mà đương sự dùng để có thể tự làm yên lòng mình bằng cách lôi kéo sự chú ý của người khác đến sự “ quan trọng” của cá nhân mình. [(1); chương.10; tr.32]. Adler tin rằng người ta phát triển thành những cá nhân và cũng phát triển bên trong một cấu trúc xã hội, mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào những người khác. Adler chú ý nhiều tới xã hội rộng lớn. Adler bác bỏ các quan niệm về thưởng phạt, trái lại, ông tập trung sự chú ý vào những hậu quả luân lý và tự nhiên. Công trình của Adler có ảnh hưởng quan trọng đối với tham vấn trẻ em vì rõ ràng chúng ta cần lưu tâm tới môi trường rộng lớn của trẻ. [(2); tr.56]. 2. Liệu pháp thân chủ trọng tâm. Carl Roger, người sáng lập liệu pháp thân chủ trọng tâm cho rằng con người có trong chính mình cái khả năng và xu hướng tiềm ẩn nếu không phải là hiển nhiên tiến tới sự trưởng thành. Nó hiển hiện trong cái khả năng con người hiểu rõ các phương diện của đời mình và của chính mình đang làm cho mình đau đớn và bất mãn. Vì Roger tin rằng thân chủ có khả năng tìm ra giải pháp của riêng mình nên ông hoàn toàn không chi phối và sử dụng kỹ thuật nghe tích cực và làm phản hồi lại cho thân chủ điều gì thân chủ đã nói; Ông cho rằng việc nhà tham vấn giải thích thay cho khách hàng là không thích hợp. [(2); tr.64]. Roger nhận ra rằng: “Tôi không thể giúp gì được một người đang bất an, bằng bất cứ một phương pháp nào dựa trên kiến thức, trên sự tập luyện hoặc trên những gì người khác dạy tôi. Có thể giảng giải cho một người về chính người đó, phác hoạ những giai đoạn sẽ đưa người đó tới chỗ trưởng thành, huấn luyện người đó biết sống một lối sống thoả đáng hơn. Nhưng nhiều nhất chúng chỉ có thể tạo ra một sự thay đổi tạm thời, sớm tan biến và làm cho người đó càng tin vào sự yếu kém của mình hơn nữa”. [(3); tr.51-52]. Thân chủ có thể tìm ra giải pháp của riêng mình trong một môi trường ở đó có mối quan hệ tham vấn nồng ấm và đồng cảm. [(2); tr.64]. Khi xây dựng được mối quan hệ mà trong đó nhà tham vấn có: Một sự chân thực và trong suốt Một sự nhiệt tình tôn trọng và chấp nhận người khác như một cá nhân riêng biệt Một khả năng nhạy cảm để nhìn thế giới của người đó và chính ngừơi đó như người đó nhìn họ. [(3); tr.59]. sẽ giúp thân chủ tự tổ chức lại nhân cách của mình, cả ở mức ý thức cũng như vô thức, theo một phương cách đương đầu với đời sống một cách xây dựng hơn, sáng tạo hơn. Người ấy sẽ thay đổi quan niệm về chính mình, thực tế hơn trong quan điểm về bản thân mình, đánh giá mình cao hơn, tự chủ và tự tin hơn, chấp nhận người khác hơn, thấy người khác giống mình hơn. [(3); tr.56-57]. Nhà tham vấn không được giải thích hoặc gợi ý một giải pháp nào. Họ cần phải lắng nghe và duy nhất đóng vai trò “cái gương soi” phản chiếu lại và tổ chức lại những ý nghĩ, những cảm xúc mà thân chủ bộc lộ. Chính sự phản chiếu này dẫn dắt thân chủ đi đến khám phá nội tâm, nhìn nhận mình một cách hiện thực hơn và hiểu được cách nhìn nhận của người khác về mình. Thân chủ tự quyết định mình đã đạt được mục đích theo đuổi thông qua trị liệu. Thân chủ sẽ tự do trong mọi trường hợp theo đuổi trị liệu hay ngừng lại. Cũng có thể thấy rằng, với liệu pháp thân chủ trọng tâm, hình như với những người có khả năng bộc lộ những cảm xúc và trình bày vấn đề của mình, kết quả sẽ tốt hơn. [(1); chương.12; tr.37]. 3. Liệu pháp Gestalt. Fritz Perls (1893-1970) là người đề xướng phương pháp tiếp cận trị liệu Gestalt cho những rối nhiễu tâm trí của con người do nhân cách của họ không tạo thành một thể thống hợp, một cấu trúc (Gestalt) Mục đích của trị liệu đưa lại cho con người một sự hài hoà sẵn sàng có khả năng đề cập bất kỳ tình huống nào trong khi biết rõ ràng cái gì mình muốn làm chứ không phải những gì mình phải làm hoặc sẽ phải làm nếu như... Liệu pháp Gestalt muốn trở thành liệu pháp nhằm đạt đến giải phóng và tự chủ của nhân cách. [(1); chương 12; tr.37]. Perls nghĩ rằng nên dành sự chú ý vào kinh nghiệm hiện tại nhiều hơn là quá khứ của thân chủ và thân chủ nên nhận trách nhiệm về tình trạng hiện tại chứ không phiền trách người khác hoặc quá khứ của mình. Bằng cách khuyến khích thân chủ tiếp xúc đầy đủ với kinh nghiệm hiện tại của bản thân “ngay lúc này và tại đây”, ông tin rằng ông có thể giúp thân chủ hoàn thành “công việc còn dở dang”, tách lọc mối rối tình cảm, đạt được điều mà người ta gọi là Gestalt (sự đồng bộ). [(2); tr. 66-67]. Kỹ thuật nền tảng là không giải thích những sự viẹc cho thân chủ biết nhưng tốt hơn là cho họ có cơ hội để tự hiểu mình và tự khám phá ra mình trong tình huống hiện nay để làm nổi lên cái Gestalt “ở đây và bây giờ”. Người ta dẫn dắt thân chủ đến phát triển nội lực của mình trong quá trình thành thục, nhờ đó học được cách đứng vững về mặt cảm xúc. [(1); chương 12; tr.65]. Liệu pháp Gestalt thúc đẩy con người sống trong huyễn tưởng, đóng vai trò một số nhân vật trong mộng của mình, ý thức được những xúc cảm, giọng nói,... khám phá những cảm giác cơ thể mà cho đến lúc đó không hay biết, tất cả tìm cách kết nối những yếu tố khác nhau đó lại và khiến cho con người đạt được sự ý thức toàn vẹn về bản thân. Đánh giá: Liệu pháp Gestalt giống như phân tâm, dựa vào sự giác ngộ và giải quyết những xung đột nội tâm nhưng cũng giống như liệu pháp thân chủ trọng tâm, liệu pháp Gestalt lại còn tìm cách dẫn thân chủ đến đương đầu với cuộc sống một cách có ý thức và hiệu quả. [(1); chương 12; tr.37]. 4. Liệu pháp trị liệu hành vi nhận thức-RET [Trị liệu hành vi xúc cảm thuần lý(2) hay liệu pháp xúc cảm hợp lý (1)]. Liệu pháp này do Albert Ellis xây dựng năm 1962. Ellis tin vào việc cho lời khuyên trực tiếp và sự giải thích trực tiếp hành vi của thân chủ. Phương pháp của ông bao gồm việc đối mặt và thách thức điều mà ông gọi là niềm tin phi lý, thuyết phục thân chủ thay thế những niềm tin khiến thân chủ nghĩ không tốt về bản thân hoặc khiến người ấy mang đầy những cảm nghĩ tiêu cực hoặc khó chịu. (2); tr.70] Mục đích trị liệu của trị liệu hành vi nhận thức là cùng với đương sự phân tích tình huống phải đối đầu và rút ra kết luận. Ông khuyến khích thân chủ, thuyết phục, chiều chuộng thúc đẩy hắn tham gia vào các hoạt động đã làm cho hắn chùn bước hoặc sợ hãi và khuyến khích hắn tự mình sử dụng kỹ thuật đó như là một công cụ để phản truyền chống lại những niềm tin không có cơ sở. [(1); chương 12; tr.67]. Một điểm quan trọng nữa của Trị liệu hành vi nhận thức là nhìn về quá khứ của thân chủ để xác định xem quá khứ ảnh hưởng như thế nào đến nghĩ hoặc hành vi của thân chủ. [(5); tr.148]. Nhiệm vụ của nhà trị liệu nhằm làm sáng tỏ các quá trình tư duy của thân chủ làm thân chủ ý thức được điều gì không hợp lý trong đó làm cho thân chủ đi đến tri giác khách quan hợp lý các sự kiện và dẫn tới tìm ra được những giải pháp mới có khả năng làm giảm lo âu. [(1); chương [12; tr.38]. 5. Các trị liệu cá nhân khác. a. Trị liệu hiện sinh Có nguồn gốc phân tâm nhưng xu hướng nhân văn và nhận thức nhấn mạnh “tự do ý chí” đưa con người đến lựa chọn và chịu trách nhiệm. Trị liệu này nhằm làm cho con người nắm được phương hướng muốn ban cho cuộc sống của mình và ý nghĩa tuỳ từng hành động của mình (Frank, 1961; May, 1967). [(1); chương.12; tr.38]. b. Liệu pháp thực tế (Reality Therapy-RT) Liệu pháp này được William Glasser (1965) sáng lập, sau này được gọi là Phép trị liệu kiềm chế và ngày nay thì gọi là Pháp trị liệu lựa chọn. Liệu pháp thực tế là liệu pháp nhận thức làm cho thân chủ có khả năng đánh giá hành động và dự án của mình tuỳ theo các giá trị mà thân chủ bảo vệ và hậu quả các hành động có nguy cơ gây ra cho anh ta. Mục đích của trị liệu chủ yếu đưa con người đến chịu trách nhiệm bằng “hợp đồng” và thiết tha với các mục tiêu đã định, một khi chúng đã được xây dựng một cách hiện thực. [(1); chương 12; tr.39] Liệu pháp thực tế rõ ràng là hữu dụng ở thời điểm trong quá trình tham vấn mà trẻ em đạt được nhận thức về hành vi của mình và hành vi của người khác và đang tìm cách thích ứng để đạt các nhu cầu của mình bằng cách cư xử khác đi. Liệu pháp thực tế cũng hữu dụng trong việc đào tạo các kỹ năng xã hội. [(2); tr.74]. c. Tâm kịch. Là một kỹ thuật do Moreno hiệu chỉnh. trong tâm kịch, đương sự được mời đóng vai một nhân vật nào đó trong trò chơi có chủ đề tập trung vào vấn đề của mình. Như vậy, thân chủ được dẫn đến giải toả các tình cảm riêng thông qua ứng khẩu do nhà trị liệu chỉ huy, trong đó các kịch sĩ được tập dượt đóng vai các nhân vật quan trọng trong cuộc đời của đương sự. Những người khác tham dự được chỉ định phải chăm chú theo dõi để đối chiếu những gì đã xảy ra trên sàn diễn với các vấn đề riêng của họ (Moreno, 1965). Mục đích của trị liệu là làm cho thân chủ có thể tự bộc lộ với mình những xúc cảm sâu kín nhất một cách mạnh mẽ và hiệu quả hơn là chỉ đơn giản nói chúng ra mồm như trong các trường hợp trị liệu khác. [(1); chương.12; tr.39]. d. Phân tích giao tiếp. Người sáng lập phương pháp này là Berne (1961). Phép trị liệu này có nguồn gốc phân tâm nhưng khác chủ yếu trên bình diện phương pháp. Berne đã chỉ ra rằng trong mỗi người chúng ta có phần của đứa con vốn là chúng ta ngày trước có phần bố và mẹ chúng ta đã có và phần người lớn là chúng ta hiện nay. Tất cả các giao tiếp của những người khác đều thấm đẫm một trong cá vai trò trên (đứa con, bố mẹ, người lớn). Vì là đứa con đôi khi chúng ta nài xin hoặc tìm cách thao túng để đạt được mục đích, vì là người lớn chúng ta cố gắng được thực tế, sáng suốt để đối mặt với các khó khăn trong cuộc sống. Mục đích của trị liệu là làm cho đương sự có ý thức hơn về ứng xử của mình để thôi đóng thêm nữa một cách vô thức vai trò người bố-mẹ, người con. Thông qua những đưỡng tương tác bên trong một nhóm nhỏ. Từ đó đương sự sẽ học được cách tự chấp nhận mình và nhờ vào một “hợp đồng” với bản thân học được phản ứng một cách ý thức và thực tế hơn trong tương lai. [(1); chương12; 39]. e. Trị liệu nhóm. Tham vấn nhóm là một hình thức tham vấn, theo đó các vấn đề của cá nhân sẽ được thể hiện trong phạm vi nhóm. Các thành viên của nhóm xâu chuỗi các vấn đề, cảm giác, suy nghĩ và kinh ngihệm của mình lại với nhau và nhận sự phản hồi, hỗ trợ từ các thành viên khác của nhóm và từ giảng viên. [(5); tr.180] Tham vấn nhóm dựa trên sự kiện là sự tập hợp nhiểu người có cùng vấn đề giống nhau, đưa họ đến nâng đỡ lấn nhau trên bình diện cảm xúc và khuyến khích nhau phát triển những ứng xử mới. [(1); chương.12; tr.40]. Mục đích tham vấn nhóm: Phát triển các quan hệ hài hòa Giúp các thành viên giải quyết các vấn đề và các mâu thuẫn trong đời sống của họ. Giáo dục các thành viên của nhóm. Mang lại những thay đổi về nhận thức, cảm xúc Giúp thành viên phát triển sự tự nhận thức. Mục tiêu của tham vấn nhóm: Bồi dưỡng ý thức hợp tác và hỗ trợ Tạo điều kiện cho quá trình chữa trị Tạo điều kiện cho những thay đổi về nhận thức và cư xử và sự phát triển tính cách Giáo dục học viên Hỗ trợ ra quyết định và giải quyết vấn đề. [(5); tr.189-190] Mục đích của liệu pháp nhóm không chỉ làm giảm nhẹ các rối loạn bệnh lý thông qua sự thay đổi phản ứng cảm xúc đối với các rối loạn mà còn nhằm thiết lập cách ứng xử và nhằm thay đổi nhận thức cũng như cách thức giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy mà mục đích của trị liệu nhóm vừa hướng tới triệu chứng vừa hướng tới làm thay đổi nhân cách và cách ứng xử. [(7); tr. 196] Đánh giá: sự việc một cá nhân cảm thấy được sự nâng đỡ của nhóm hình như làm họ thực sự dễ dàng trình bày những tình cảm hoặc những khó khăn của mình hơn. Liệu pháp nhóm như vậy có thể tạo nên giai đoạn đầu tiên để tái hòa nhập vàp đời sống thực tế vì liệu pháp cho phép đương đầu với những người khác và đòi hỏi có sự hiểu biết và kính trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, phương hướng đặt ra cho nhóm và tác động của liệu pháp tùy thuộc nhiều vào nhân cách của người trị liệu, mục đích thực tế được theo đuổi một cách hữu thức hay vô thức. [(1); chương.12; tr.40-41]. f. Tham vấn gia đình. Liệu pháp gia đình được xem như là một liệu pháp nhóm đặc biệt vì các thành viên của nhóm là thành viên trong một gia đình. [(7); tr. 176] Xuất phát từ nguyên lý là phần lớn các vấn đề của cá nhân nảy sinh từ một hệ thống rộng hơn là cấu trúc của gia đình và các tương tác giữa các thành viên gia đình (Minuchin, 1979). Trong liệu pháp gia đình, các thành viên được mời dính dáng vào trị liệu nhằm để nhận dạng vai trò mà từng người đóng trong gia đình, các người “giơ đầu chịu báng” khả dĩ, cũng như các kênh giao tiếp thông thường được sử dụng trong gia đình. Những người tham gia được chỉ định phải chia sẻ cùng nhau những tình cảm sâu xa mà họ cảm nhận đối với nhau. [(1); chương.12; tr.40]. Mục đích của liệu pháp gia đình là nhằm loại trừ hoặc làm giảm những căng thẳng cảm xúc và nhằm thiết lập lại trạng thái cân bằng đã bị phá vỡ bên trong gia đình. Nghĩa là nhằm thay đổi và thiết lập lại mối quan hệ giữa các thành viên (nhân cách) trong gia đình đó. Liệu pháp gia đình tìm kiếm sự tác động lên mối tương tác giữa người bệnh với môi trường sống của gia đình. Điều này không có nghĩa là để tìm kiếm sai lầm hay lỗi của ai đó mà chỉ nhằm thay đổi mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. [(7); tr. 177-178] Theo Salvador Minuchin, các mục tiêu của tham vấn gia đình là: Tái cấu trúc gia đình; Chuyển đổi vị trí tương đối của các thành viên để làm đảo lộn mẫu hình bị rối loạn và để làm mạnh lên vai trò của bố mẹ; Huy động mẫu hình thay thế thích nghi hơn [(7); tr. 181] Mục tiêu đầu tiên của tham vấn gia đình là cơ cấu lại hệ thống các quy luật và mô hình tương tác trong gia đình nhằm tăng cường khả năng thích ứng của gia đình với môi trường. Với những gia đình đang bế tắc trước các cách xử sự thì những thây đổi liệu pháp được xem như một quá trình giải thoát các thành viên trong gia đình khỏi những vai trò cố hữu. Vệc cơ cấu lại cho phép các thành viên sử dụng những tiềm năng mới và tăng cường khả năng đối mặt với căng thẳng và xung đột. Mục tiêu của nhà tham vấn là giúp gia đình hợp lý hóa cơ cấu, hài hòa các mối quan hệ và cùng với các thành viên trong gia đình phát huy vai trò mới của họ. (5); tr.198 Nhà tham vấn giúp các gia đình đang có bất hòa hiểu rằng những hành vi và/hoặc cách thức đối xử của họ đang góp phần không nhỏ vào vấn đề hiện tại của họ và giúp họ thích ứng với những cách ứng xử mới có hiệu quả hơn. Bằng cách này, nhà tham vấn có thể cải thiện các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ sự tiến bộ của cá nhân (đặc biệt là trẻ em). (5); tr.170 Vai trò của nhà tham vấn là làm cho các thành viên gia đình chú ý đến các điểm nhạy cảm và gợi ý cho họ các cung cách tiến hành mới nhằm cải thiện không khí gia đình và thúc đẩy sự tăng trưởng cá nhân của từng người (Satir, 1970). [(1); chương.12; tr.40]. 6. Một số học thuyết quan trọng trong tham vấn. a. Thuyết Maslow về nhu cầu của con người. Hệ thống thứ bậc nhu cầu của Maslow [(5); tr.115]. Sự phát triển cá nhân Cơ hội để học hỏi và phát triển bản thân. Lòng tự trọng Cảm thấy hài lòng về bản thân Tự trọng và đánh giá được bản thân, tự hào về mình, đạt được thành tích cá nhân. Được công nhận Sự yêu thương và chấp nhận Gia đình, bạn bè, cộng đồng và đoàn thể An ninh Sự an toàn Nhà ở, công việc, dịch vụ y tế, bảo vệ về thể chất. Nhu cầu vật chất Sự sinh tồn Sự lành mạnh cơ bản, thức ăn, nước, quần áo ấm, nơi trú ẩn. Trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của Maslow, mỗi nhu cầu của con người trong hệ thống thứ bậc đều phụ thuộc vào nhu cầu trước đó. Nói cách khác, nếu một nhu cầu không được đáp ứng, cá nhân đó sẽ khó có thể tiến lên bước phát triển tiếp theo. Bậc đầu tiên của chiếc thang tương ứng với các nhu cầu vật chất cơ bản cần được đáp ứng trước khi người ta có thể theo đuổi những nhu cầu “cao hơn”. Vậy theo Maslow, mỗi nhu cầu con người trong “hệ thống thứ bậc” phải được thoả mãn trong mối tương quan với môi trường để người đó có thể phát triển khả năng cao nhất. [(5); tr.107]. Không cần thiết phải cố gắng thành đạt những nhu cầu bậc cao nếu trước tiên không lưu ý giải quyết các nhu cầu cấp thấp. Tuy nhiên, người ta có thể lo giải quyết mốt số nhu cầu bậc cao trước khi hoàn toàn thoả mãn các nhu cầu bậc thấp. Sự hiểu biết “Hệ thống thứ bậc” các nhu cầu giúp nhà tham vấn nhận ra khi nào những nhu cầu cụ thể của thân chủ chưa được thoả mãn và cần được đáp ứng [(2); tr.58] b. Thuyết phát triển tâm lý xã hội theo Erick Erikson. Erick Erikson tin rằng cá nhân có tiềm năng giải quyết cá xung đột của chính mình và hoạt động đầy năng lực ấy được hoàn thành bằng cách giải quyết các khủng hoảng xảy ra suốt đời của cá nhân ở những giai đoạn phát triển cụ thể. Erikson chia quãng đời của một cá nhân thành 8 giai đoạn, mỗi giai đoạn được tượng trưng bằng một sự khủng hoảng riêng. Ông tin rằng việc xử lý mỗi cuộc khủng hoảng đem đến cho cá nhân một cơ hội để củng cố bản ngã và trở nên thích nghi hơn khiến họ có thể sống một cuộc sống thành công hơn. [(2); tr. 59-60] Cơn khủng hoảng 1: Lòng tin cậy hoặc ngờ vực Cơn khủng hoảng 2: Tự trị hoặc hổ thẹn và hoài nghi Cơn khủng hoảng 3: óc sáng kiến hoặc mặc cảm tội lỗi Cơn khủng hoảng 4: Việc làm hoặc sự kém cỏi Cơn khủng hoảng 5: Bản sắc hoặc lẫn lộn vai trò Cơn khủng hoảng 6: Thân mật hoặc cách ly Cơn khủng hoảng 7: Sinh sản hay trì trệ Cơn khủng hoảng 8: Toàn vẹn cá nhân hay thất vọng. [(1); chương.10; tr.38]. Công trình của Erikson thích hợp với những vấn đề tự đánh giá và đối với công việc của nhà tham vấn nhằm giúp thân chủ đạt được sức mạnh bản ngã bằng cách giải quyết thành công các cuộc khủng hoảng trong quá trình phát triển. [(2); tr.59-60]. c. Học thuyết về sự gắn bó của John Boulby. Boulby (1969,1988) nhấn mạnh nhiều về sự gắn bó của trẻ với mẹ. Ông tin rằng các hành vi của trẻ sau này trong cuộc đời sẽ tùy thuộc vào cách trẻ gắn bó với mẹ. Theo Boulby, những đứa trẻ có sự gắn bó an tâm với người mẹ đều hạnh phúc và thích nghi tốt cũng như dễ dàng tự tách riêng và phát triển như những cá nhân độc lập; Nơi nào mà sự gắn bó thiếu vững chắc, trẻ có vẻ thiếu thích nghi về tình cảm và xã hội. Những ý tưởng về sự gắn bó thích đáng trong trường hợp tham vấn cho các trẻ có tiền sử gắn bó không tốt với mẹ và vì vậy không thể tạo được cá mối quan hệ lành mạnh. d. Jean Piaget và Lawrence Kohlberg. Jean Piaget và Lawrence Kohlberg đều đóng góp vào quan niệm về trẻ em thủ đắc các hành vi và kỹ năng đặc biệt ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Piaget (1962,1971) lưu ý rằng tác động qua lại với những đối tượng là con người và không thuộc về con người. Các mối quan hệ mà trẻ em có được với các đối tượng này giúp các em trở nên thích nghi liên tục trong hành vi của mình. Khi trẻ trở nên thích nghi hơn, nó phát triển những mức độ nhận xét cao hơn và bắt đầu hiểu môi trường quanh mình theo cách ngày càng phức tạp. Thấy được sự phát triển về nhận thức và thủ đắc các giá trị đạo đức của trẻ em là điều quan trọng đối với nhà tham vấn khi chọn các hoạt động như các trò chơi có luật lệ. [(2); tr.60-61] II. Các liệu pháp ứng xử. Các liệu pháp ứng xử xuất phát từ nguyên lý là mọi hành vi ứng xử đều do tập nhiễm, các liệu pháp này nhờ sự giúp sức của các kỹ thuật điều kiện hóa hoặc giới thiệu mẫu nhằm thay thế một hành vi không thích ứng bằng một hành vi khác cho phép hoạt động thích hợp hơn. Có 4 loại tiếp cận nhằm thay đổi ứng xử: Phá điều kiện hó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5- btaptucachthamvan-15.doc
Tài liệu liên quan