Nho giáo là việc đề cao việc họp tập, có thể coi đó là một di sản tư tưởng quý báu mà Nho giáo để lại cho đời sau và cho đền ngày nay vẫn con nguyên giá trị tích cực. Theo Nho giáo thì làm Vua vẫn phảI học , làm ruộng làm vườn cũng phải học. Ngay trong lĩnh vực rèn luyện phẩm chất của người quân tử thực hiện các tín điều đạo đức của Nho giáo cũng phải học .Nhưng nội dung chủ yếu của việc dạy và học của Nho giáo lại thiên về mặt tư tưởng đạo đức của Nho giáo , coi nhẹ những kiến thức về giới tự nhiên, về lao động sản xuất chỉ chuyên chú vào việc đạo tạo các quan choc phục vụ các vương triều quý tộc theo những quan điểm chủ trương chính trị – xã hội mà Nho giáo theo đuổi.
6 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8340 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trình bày giá trị, hạn chế của nho giáo và sự ảnh hưởng của nho giáo tới Việt nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận:
Trình bày giá trị, hạn chế của nho giáo và sự ảnh hưởng của nho giáo tới Việt nam hiện nay
Khái quát chung về Nho giáo
Nguồn gốc ra đời của Nho giáo
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, xã hội loạn lạc, Khổng Tử ( 551 – 479 trước CN ) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hoá tích cực truyền bá tư tưởng đó. Chính vì thế đời sau gọi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Kinh điển của Nho giáo thường kể tới bộ Tứ Thư và Ngũ Kinh, Tứ Thư có Trung dung, Đại học, Luận Ngữ, Mạnh Tử; Ngũ Kinh có : Thi , Thư, Lễ, Dịch , Xuân Thu. Sau khi Khổng Tử qua đời các học trò của ông phát triển Nho giáo thành tám phái nhưng chủ yếu là phái Mạnh Tử ( 327 – 289 trước CN) và Tuân Tử ( 313 – 238 trước CN). Mạnh Tử đã đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở đạo Nhân của Khổng Tử, đề ra thuyết “tính thiện”, ông cho rằng “thiện mênh” quyết định nhân sự , nhưng con người có thể qua việc dồn tâm dưỡng tính mà nhận thức được thế giới khách quan. Ông hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho giáo trên phương tiện thế giới quan và nhận thức luận; Tuân tử đã phát triển truyền thống trọng lễ của Nho gia, nhưng trái với Mạnh Tử, ông cho rằng con người vốn có “tính ác”, coi thế giơi khách quan có quy luật riêng. Theo ông sức người có thể thắng trời.Tư tưởng của Tuân Tử thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ.
Tuy có sự khác nhau về quan niệm giữa các nhà Nho giáo nhưng tựu chung lại nội dung cơ bản đạo đức của Nho giáo là Luân thường. “Luân” có năm điều chính gọi là “ngũ luân”, đều là những quan hệ xã hội, trong đó có ba điều chính là vua tôi, cha con, chồng vợ gọi là ta tam cương. Trong ba điều lớn này có hai điều mấu chốt là quan hệ vua tôi biểu hiện bằng chữ trung, quan hệ cha con biểu hiện bằng chữ hiếu. Giữa chữ trung và chữ hiếu thì chữ trung là ưu tiên. Chữ trung đứng đầu ngũ luân. “Thường ”có năm điều chính gọi là ngũ thường, đều là những đức tính do trời phú cho mỗi người: Nhân , nghĩa, lễ, trí , tín. Đứng đầu ngũ thường là nhân nghĩa. Trong nhân nghĩa thì nhân là chủ. Đạo của Khổng Tử trước hết là Đạo nhân, luân và thườn gắn bó với nhau, nhưng trên lý thuyết và trong thực tiễn luân đứng trước thường. Về chính trị, chủ trương là cho xà hội trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết là thực hiện chính danh tức là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp cái danh nó mang. Vậy trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một trách nhiệm và bổn phận mà những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn phận phù hợp với dnah ấy. Đó là thuyết “chính danh” của Khổng Tử.
Giá trị và hạn chế của Nho giáo
Bàn về các giá trị của Nho giáo , chúng ta thấy điểm trung tâm của Nho giáo là chữ Nhân với một phạm vi bao quát rộng lớn. Việc đề cao chữ nhân là có ý nghĩa tích cực, mang tính chất nhân bản, nhưng mặt khác trong quan niệm của Không Tử về chữ nhân nó bao hàm sự thừa nhận chề độ, đẳng cấp và quan hệ tông pháp. Nhân không chỉ có yêu mà cả ghét.Tất nhiên sự yêu thương này là chủ đạo nhưng mà nó cũng có cấp độ khác nhau dựa theo quan hệ thân sơ , sang hèn, nhân không phải là lòng bác ái rộng lớn bao la luôn có giới hạn, tiêu chí cụ thể. Về chính trị , do hoàn cảnh lịch sử cụ thể , Nho giáo đưa một một số biện pháp cụ thể có tính chất cải lương để hòa hoãn mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị quý tộc và nhân dân cũng đồng thời điều hòa quyền lợi, giảm bớt mâu thuẫn xung đột trong nội bộ các tầng lớp thống trị , mọi ý tứ trong chính trị thuộc phạm vi Nho giáo đều bao quanh chữ Lễ và thuyết chính danh.
Bàn về Lễ, Lễ hiểu theo nghĩa rộng là nghi lễ , cơ chế, kỷ cương, trật tự tôn ti của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội có tổ chức bảo đảm phân định rõ ràng trên dưới, trước sau, không bị xáo trộn đồng thời ngăn ngừa tinh cảm cá nhân thái quá, chữ Lễ đề ra trong Nho giáo là công cụ chính trị là vũ khí một phương pháp trị nước,trị dân lâu đời. Vì vậy,những điều quy đinh về lễ vốn ra đời rất sớm , nhiều và tỉ mỉ hơn những điều về pháp luật. Với đối tượng đông đảo là nông dân lao động , lớp trẻ và phụ nữ, Đạo nho cho họ là đối tượng dễ sai khiến thì những quy định về lễ rườm rà, phiền phức, cay nghiệt sẽ làm cho họ mất đi nhiều về phẩm chất con người. Thể hiện rõ ràng nhất về chữ Lễ trong đạo Nho là bộ Kinh Lễ, bộ sách ghi chép các quy tắc lễ nghi để nuôi dưỡng những tình cảm tốt của con người, để giữ cho trật tự xà hội được phân minh và hạn chế các loại tư dục bàn bất chính. Phàm những tình cảm tốt đẹp của người ta mà không có cái gì để bồi dưỡng thì dần dần nó sẽ theo thời cuộc , hoàn cảnh mà biến đổi đi, hóa thành dở xâu. Dùng lễ là có ý để nuôi gây lại cái tình cảm tốt đẹp trong mỗi người. Con người ta có những việc quan hệ đến xã hội như phong tục tôn giáo , nếu không có phép tắc rõ ràng thì những việc như tế tự, hiếu hỷ , tín ngưỡng , cách ăn uống ở chỗ đình trung sẽ thành hồ đồ, nhốn nháo, việc đối đãi sẽ thành ra khó xử. Dùng Lễ để phân biệt các tôn ty , trật tự thân sơ sẽ tránh được hiềm nghi nói trên. Người đời ai cũng có lòng tư dục nếu không có quy củ đề phòng giữ trước thì thường nó hay khiến người ta làm những điều bất nhân , phi nghĩa. Dùng lễ để chế tài những hành vi thái quá cho hợp với lẽ phải . Lễ quan trọng nên Nho giáo rất trọng lễ.
Bàn về Chính Danh , Chính danh trong thời kỳ Xuân Thu là nói về xác định chế độ độc tôn quân chủ, ta biết rằng một nước không thể không có người cầm đầu nhưng lại sợ các ông vua chúa này hay lạm dụng quyền lực của mình để làm điều tan bạo nên trong Nho giáo mới đưa cái “ nguyên” của dương khí để thống trị việc trời và lấy trời để thống trị các Vua .Nhưng cái thâm ý ấy không được những người có quyền thế thời bấy giờ hiểu hết nên Nho giáo mới đưa ra các tai dị như : Nhật thực, Nguyệt Thực, Sao Chổi, Động đất để răn đe bọn vua chúa. Ông muốn họ phải kính sợ những điểm lạ ấy để tự mình tu tỉnh lại rồi lãm những điều ích nước lợi dân.
Nho giáo là việc đề cao việc họp tập, có thể coi đó là một di sản tư tưởng quý báu mà Nho giáo để lại cho đời sau và cho đền ngày nay vẫn con nguyên giá trị tích cực. Theo Nho giáo thì làm Vua vẫn phảI học , làm ruộng làm vườn cũng phải học. Ngay trong lĩnh vực rèn luyện phẩm chất của người quân tử thực hiện các tín điều đạo đức của Nho giáo cũng phải học .Nhưng nội dung chủ yếu của việc dạy và học của Nho giáo lại thiên về mặt tư tưởng đạo đức của Nho giáo , coi nhẹ những kiến thức về giới tự nhiên, về lao động sản xuất chỉ chuyên chú vào việc đạo tạo các quan choc phục vụ các vương triều quý tộc theo những quan điểm chủ trương chính trị – xã hội mà Nho giáo theo đuổi.
ảnh hưởng của nho giáo tới Việt Nam hiện nay
Tất cả những quan điểm , những học thuyết của Nho giáo được nêu ở trên tuy có những nhược điểm nhưng nó vẫn có giá trị nhất định trong xã hội cho đến thời đại ngày nay, xã hội Việt Nam hiện vẫn đang chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo. Quá trình tiếp nhận Nho giáo Trung Quốc ở Việt Nam đã diễn ra trong một thời gian dài và phức tạp. Nho giáo đã du nhập vào đời sống xã hội, chính trị Việt Nam từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của lực lượng phong kiến phương Bắc. Sau thời Bắc thuộc, học thuyết Nho giáo đã được nhà nước phong kiến Việt Nm áp dụng nhằm thực hiện ổn định, trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển hưng thịnh. Điều này thể hiện rõ nét nhất trong đời sống tinh thần và hoạch định đường lối cai trị đất nước của các triều đại phong kiến Việt Nam từ Đinh, Tiên, Lế, Lý, Trần, Lê sơ, Nguyễn…và đến nay vẫn được duy trì và phát triển.
Trong quá trình đó, một mặt là, các Nho sĩ quan lại Trung Quốc và Nho sĩ quan lại Việt Nam đã tích cực truyền bá tư tưởng Nho giáo trong đời sống nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau; mặt khác, chính tư tưởng Nho giáo phải luôn đấu tranh với các tôn giáo khác, để tự khẳng định mình trong xu thế hỗn dung tam giáo (Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo). Khi Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống xã hội Việt Nam, các Nho sĩ Việt Nam đã tiếp nhận những yếu tố tích cực của Nho giáo để xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ và nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Một trong những hoạt động của các Nho sĩ Việt Nam trong quá trình truyền bá tư tưởng Nho giáo, là biên soạn các trước tác để phổ biến trong đời sống nhân dân thông qua việc giáo dục và đào tạo các thế hệ Nho học ở Việt Nam.
Một trong những nội dung tích cực của học thuyết Nho giáo là “trị quốc, bình thiên hạ”. Công cuộc “trị quốc, bình thiên hạ” này trên thực tế là tạo cho xã hội một trật tự, một sự điều chỉnh, sự ổn định để đi đến một sự hài hòa. Vì thế ở những khía cạnh nào đó, điều này còn có giá trị nhất định trong xã hội ở nước ta hiện tại, nhất là trên chặng đường đi vào WTO, chặng đường của hội nhập.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện đại, quan hệ gia đình và đất nước vẫn luôn có mối liên hệ hữu cơ. Gia đình vẫn là đơn vị xã hội cơ bản, là tế bào của xã hội. Truyền thống lâu đời của người Việt rất coi trọng gia đình, coi trọng nhân phẩm, rèn dũa đạo đức, lối sống. ảnh hưởng của Nho giáo càng làm cho truyền thống này được củng cố, bền chặt nâng cao thêm một bậc.
Nho giáo thâm nhập sâu rộng trong mọi tầng lớp xã hội, làm phong phú đời sống văn hoá cộng đồng, mà ngày nay vẫn có vai trò nhất định trong công cuộc xây dựng làng văn hóa, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đóng góp nổi bật khác của Nho giáo là chú trọng giáo dục. Giáo dục Nho học chủ trương lấy đức dục làm gốc, lấy trí dục làm ngọn. Ngày nay phải theo thời mà học, học tri thức hiện đại để bắt kịp và hòa nhập, nhưng không thể xem nhẹ đức dục như hầu hết các trường học đang noi theo truyền thống của cha ông ta là “tiên học lễ hậu học văn”. Nền giáo dục và khoa cử Nho học đề cao tinh thần hiếu học, coi trọng việc học. Từ gia đình, đến cộng đồng và xã hội đều quan tâm đến sự học của con em mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26301.doc