Tiểu luận Trình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo

Lýthuy ếtlựachọnhợplýnàydựa khánhiềuvàonguyên tắccủalý

thuy ếttrao đổi: sựtương táccủacon ngườicóthể đượccoi nhưlàmột hình

thứctrao đổi. Từ đótiếpcận đểgiảithíchvềsựnổilên vàpháttriểncủacác

giáopháivàsựsùngbáitôn giáo Trong một lýthuy ếtcủatôn giáo, Stark và

Bainbridge tiếptụcpháttriểnlýthuy ếtnòngcốttrong nhiềucáchkhácnhau,

bao gồmnguồngốccủacácvịthầntrong tínngưỡngvàtinh thần; sựnổilên

củacác phápsưvàcáctổchứctôn giáo. Đây lànhữngnguồntừmột lýthuy ết

chung củacơcấuxãhội vàvăn hoá. Tấtcảnhữngchi tiết này đángra không

được đềcập đến ở đây nhưng đơn giảnvìtrong quátrìnhpháttriểncủacơcấu

xãhộivàvăn hoá, cụthểchuyên ngànhvăn hoánổilên vàpháttriểnthành hệ

thốngvăn hoá, một trong số đólàcóliên quan vớitôn giáo. Tương tự, khi các

xãhội đạtmột kíchthướcnhất định, mức độphứctạp, thìcáctổchứcxãhội

nổilên, bao gồmcáctổchứctôn giáo.

pdf11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4408 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Đề bài : Trình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo. 1. Chủ thuyết lựa chọn hợp lý. - Thuyết lựa chọn hợp lý (hay còn gọi là thuyết lựa chọn duy lý) trong xã hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ VIII, XIX. Một số nhà triết học đã cho rằng bản chất con người là vị kỷ, luôn tìm đến sự hài long, sự thoả mãn và lảng tránh nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế học cổ điển thì từng nhấn mạnh vai trò động lực cơ bản của động cơ kinh tế, lợi nhuận khi con người phải đưa ra quyết định lựa chọn hành động. Đặc trưng thứ nhất có tính chất xuất phát điểm của sự lựa chọn duy lý chính là các cá nhân lựa chọn hành động. Thuyết này gắn với tên tuổi của rất nhiều nhà xã hội học tiêu biểu như: George Homans, Peter Blau, James Coleman… - Thuyết lựa chọn hợp lý dựa vào tiên đề cho rằng con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực. Phạm vi của mục đích đây không chỉ có yếu tố vật chất (lãi, lợi nhuận, thu nhập) mà còn có cả yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần. - Định đề này được Homans diễn đạt theo kiểu định lý toán học như sau: khi lựa chọn trong số các cách hành động có thể có, cá nhân sẽ chọn cách nào mà họ cho là tích của xác suất thành công của hành động đó với giá trị mà phần thưởng của hành động đó là lớn nhất. Tức là Homans đã nhấn mạnh đến đặc trưng thứ hai của sự lựa chọn hợp lý là quá trình tối ưu hoá. 2- Tương tự như vậy thì J. Elster lại phát biểu nội dung của thuyết này bằng câu nói đơn giản “Khi đối diện với một số cách hành động, mọi người thường làm cái mà họ tin là có khả năng đạt được kết quả cuối cùng tốt nhất”. - G. Simmel nêu ra nguyên tắc “cùng có lợi” của mối tương tác xã hội giữa các cá nhân và cho rằng mỗi cá nhân luôn phải cân nhắc, toan tính thiệt hơn để theo đuổi mục đích cá nhân, để thoả mãn các nhu cầu cá nhân. Simmel cho rằng mọi mối tương tác giữa người với người đều dựa vào cơ chế cho- nhận tức là trao đổi những thứ ngang giá nhau. Như vậy, xã hội được hiểu là mạng lưới các quan hệ trao đổi giữa các cá nhân. - Tuy vậy sự duy lý hợp lý này là có giới hạn, tương đối, tức là “duy lý trong bọc”. - Trên thực tế, thuyết lựa chọn hợp lý với các biến thể của nó chủ yếu được triển khai trên nhiều cấp độ từ hành động xã hội của cá nhân đến chức năng của hệ thống xã hội và mối tương tác giữa cá nhân, nhóm, thiết chế và hệ thống xã hội. Nhờ vậy, đối với câu hỏi cơ bản của xã hội học: cái gì tạo nên sự trật tự xã hội? Các tác giả của thuyết này đã đưa ra câu trả lời khá rõ ràng: đó là sự lựa chọn hợp lý, sự trao đổi xã hội có khả năng tạo dựng và duy trì ổn định, trật tự xã hội. - Trong những năm gần đây, thuyết lựa chọn hợp lý đã thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu đến mức mà nhà xã hội học Neil Smelser ghi nhận rằng đó là một chủ đề trọng tâm không những của những nhà lý luận xã hội học mà còn của các khoa học xã hội khác trong thập niên cuối của thế kỷ XX. - Chủ thuyết lựa chọn duy lý hợp lý gồm có hai nhánh (hay chính xác là hai biến thể) là lý thuyết trao đổi xã hội và lý thuyết lựa chọn hợp lý. Hai nhánh lý thuyết này về nội dung cơ bản là giống nhau như trên. Chỉ khác nhau ở chỗ là lý thuyết trao đổi xã hội thì nhấn mạnh đến quá trình trao đổi những vật ngang giá giữa các cá nhân trong xã hội, với nguyên tắc hai bên cùng có 3lợi; còn thuyết lựa chọn hợp lý lại nhấn mạnh đến sự lựa chọn các phương tiện, cách thức hành động để đạt được lợi ích tối đa với chi phí tối thiểu. 2. Chủ thuyết lựa chọn hợp lý trong tôn giáo. 2.1. Thuyết trao đổi trong tôn giáo. - Nội dung của lý thuyết trao đổi có thể tóm tắt trong một số định đề cơ bản như sau: + Con người không phải là một thực thể thuần tuý lý tính; ngược lại, họ thường xuyên tính toán chi phí-lời lãi trong sự thương lượng hằng ngày với đồng loại. + Con người không nắm được những thông tin chắc chắn về tất cả các phương án có thể có do hành động xã hội có thể mang lại cho họ; họ chỉ biết đến vài cái, nhưng đủ để bảo đảm cho họ một sự kiểm soát tối thiểu về sự phân phối chi phí và lời lãi sơ đẳng. + Con người luôn luôn hành động vì bắt buộc, đấu tranh với những đồng loại của họ để giành những lợi thế trong một quá trình thương lượng với nhau. Những liên hệ trao đổi được mô tả ở trên không chỉ có giá trị đối với thị trường kinh tế mà đối với tất cả những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hơn nữa, những liên hệ ấy còn có nghĩa là con người để theo đuổi những mục tiêu của mình, phải huy động và trao đổi không chỉ những của cải vật chất, mà cả những nguồn tượng trưng (tình cảm, ý tưởng, giao tiếp không bằng lời…). - Thuyết trao đổi trong tôn giáo: + Hình thức trao đổi xã hội-tôn giáo đầu tiên: là hệ thống trao đổi “kula-ring” của những người dân các đảo Triobrands qua nghiên cứu của Malinowski. 4“Kula-ring” thực chất là một hệ thống trao đổi vòng tròn về những đồ vật (vòng tay làm từ những vỏ màu trắng và vòng cổ làm từ vỏ màu đỏ). Hai lần mỗi năm, người dân trên đảo Trobriand khởi động xuồng của mình và ghé thăm các hòn đảo khác, mang theo quà tặng và đặc sản địa phương để thực hiện trao đổi. Người dân ở các đảo khác nhau của quần đảo này đã tiến hành trao đổi theo những hướng ngược nhau (vòng tay theo một hướng nào đó, vòng cổ theo một hướng ngược lại, theo lối chu kỳ). Theo hướng kula, vòng tay được trao đổi với vòng cổ theo hướng ngược lại. Nói riêng giữa các cá nhân ta luôn thấy một sự trao đổi vòng tay để lấy vòng cổ. Kula không có giá trị tiền tệ và không thể được chuyển đổi thành hàng tiêu dùng, nó chỉ được dùng để trưng bày và thể hiện uy tín. Ngoài ra, vật có giá trị Kula được xếp hạng theo giá trị và tuổi tác và vì vậy là những mối quan hệ xã hội được tạo ra thông qua những trao đổi đó. Tức là hệ thống trao đổi vòng tròn kula cũng mang tính chính trị. Nó cung cấp tình trạng nội bộ dành cho nam giới, và tăng cường sự ổn định chính trị, kinh doanh giữa các hòn đảo kula bằng việc tăng cường hòa bình. Như vậy hệ thống trao đổi kula-ring đã giúp liên kết mọi người lại với nhau, đây chính là một hình thức trao đổi-tôn giáo. Marcel Mauss, môn đồ của E. Durkheim, khi tiếp thu có phê phán những quan điểm của Malinowski, đã nêu rõ rằng sự trao đổi dựa vào ý niệm trao tặng mà không hề bao hàm một lợi ích kinh tế. Theo Mauss, điều quan 5trọng là trao đổi tặng phẩm theo một quy tắc xã hội ngầm ẩn: tặng phẩm phải được trao đổi lại. Sức mạnh bắt buộc tất cả mọi người phải tôn trọng sự trao đổi của cải với nhau chính là nhóm xã hội và sự qui thuộc vào một tập thể nào đó. Tính tập thể là nguồn gốc của một thứ đạo lý thúc đẩy các cá nhân tôn trọng các quy tắc của sự trao đổi. + Claude Lévi-Strauss cho rằng con người thừa hưởng một tập hợp những chuẩn mực và những giá trị giúp cho các cá nhân biết rõ mình có thể hành động trong phạm vi nào, hành động ở đâu và như thế nào trong sự trao đổi xã hội. Tức sự trao đổi xã hội diễn ra được là vì nó đặt các cá nhân vào một khung giá trị và quy tắc đã hình thành qua các quá trình xã hội hoá. Như vậy, tôn giáo chiếm một vị trí căn bản trong các quá trình trao đổi này vì nó góp phần thiêng liêng hoá những chủ định đạo đức-luân lý của những trao đổi xã hội và làm cho chúng trở thành hiển nhiên và làm cho con người tự giác tuân theo. + Có quan niệm thì cho rằng tôn giáo có thể tạo ra một kiểu hành trang gồm những tri thức và những nguồn tượng trưng có tính nhận thức và tình cảm (chính là cảm giác an toàn khi dựa vào một đấng siêu nhiên, đấng cứu thế). Điều này có thể đem lại cho các cá nhân một số lợi thế tranh đua nào đó (về mặt tinh thần) để đương đầu với những khó khăn, trắc trở của cuộc sống và để thực hiện những trao đổi xã hội hợp lý có lợi cho bản thân mình.  Tóm lại: Tôn giáo thực hiện hai vai trò căn bản (thiêng liêng hoá những giá trị đạo đức-luân lý làm cho con người tự giác tuân theo; và cung cấp cho con người những giá trị tinh thần nhất định) đóng góp vào quá trình trao đổi xã hội. Nhờ có tôn giáo mà quá trình trao đổi xã hội của con người diễn ra một cách tốt đẹp và đem lại nhiều lợi ích cho cá nhân. 2.2. Thuyết lựa chọn hợp lý trong tôn giáo. - Những tuyên bố sớm nhất của cách tiếp cận sự lựa chọn hợp lý đã được đặt ra bởi Stark và Bainbridge vào những năm 1980. Sau đó Stark đã nghiên cứu mở rộng cộng với một số người khác nữa đã làm cho lý thuyết này 6trở nên phát triển và chiếm một vị trí quan trọng trong tôn giáo. Stark là một trong những nhà xã hội học tôn giáo rất có uy tín. Vào năm 1987, Stark và Bainbridge đã cho xuất bản cuốn sách “Lý thuyết về tôn giáo”. Lý thuyết lựa chọn hợp lý trong tôn giáo được coi là một trong những bước phát triển lớn trong khoa học xã hội, hứa hẹn để nuôi dưỡng một sự thống nhất cao trong số các môn lý thuyết của xã hội học, khoa học chính trị, kinh tế và tâm lý học. Thuyết lựa chọn hợp lý như là một lý thuyết chủ trí, được chú trọng vào việc đạt được phần thưởng của mình. Ứng dụng các lý thuyết về sự lựa chọn hợp lý thì mỗi cá nhân có xu hướng lựa chọn các phương pháp và cách thức thực hiện để tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu chi phí cho mình. Tuy nhiên công việc của họ gặp khá nhiều khó khăn vì đã tạo ra một cuộc tranh luận, chỉ trích dữ dội. Lý thuyết lựa chọn hợp lý này dựa khá nhiều vào nguyên tắc của lý thuyết trao đổi: sự tương tác của con người có thể được coi như là một hình thức trao đổi. Từ đó tiếp cận để giải thích về sự nổi lên và phát triển của các giáo phái và sự sùng bái tôn giáo… Trong một lý thuyết của tôn giáo, Stark và Bainbridge tiếp tục phát triển lý thuyết nòng cốt trong nhiều cách khác nhau, bao gồm nguồn gốc của các vị thần trong tín ngưỡng và tinh thần; sự nổi lên của các pháp sư và các tổ chức tôn giáo. Đây là những nguồn từ một lý thuyết chung của cơ cấu xã hội và văn hoá. Tất cả những chi tiết này đáng ra không được đề cập đến ở đây nhưng đơn giản vì trong quá trình phát triển của cơ cấu xã hội và văn hoá, cụ thể chuyên ngành văn hoá nổi lên và phát triển thành hệ thống văn hoá, một trong số đó là có liên quan với tôn giáo. Tương tự, khi các xã hội đạt một kích thước nhất định, mức độ phức tạp, thì các tổ chức xã hội nổi lên, bao gồm các tổ chức tôn giáo. - Theo như Stark và Bainbridge tranh luận thì tôn giáo về bản chất là một sự cố gắng để làm hài lòng những ham muốn hoặc để có được những phần thưởng an toàn. Phần thưởng được định nghĩa là bất cứ thứ gì mà con người mong muốn và sẵn sàng chịu một chi phí để có được. Phần thưởng bao 7gồm cả những cái cụ thể và chung chung như là các địa vị hư không hay không tồn tại. Chi phí là bất cứ điều gì mà mọi người cố gắng tránh. Vì vậy, chi phí sẽ được chấp nhận để bảo đảm một phần thưởng nếu phần thưởng có giá trị cao hơn chi phí. Stark và Bainbribge xem phần thưởng và các chi phí là bổ sung và luôn đi song hành với nhau. - Đối với Stark và Bainbridge, tôn giáo là sự cố gắng để bảo đảm phần thưởng mong muốn trong khi không có nghĩa là thay thế. Trong thảo luận, họ xem xét tôn giáo là một tính năng phổ quát và không thể tránh khỏi của xã hội con người vì bản chất cuộc sống gây ra sự mất đi của những thứ mà không bao giờ có thể được hài lòng bởi những phương pháp trần tục. Đây là một tiên đề cơ bản trong hệ thống quan điểm của họ. Tôn giáo bàn về một loại giải thích đặc biệt, mà nó liên quan đến các giả định siêu nhiên. Bởi siêu nhiên, theo hai ông có nghĩa là lực lượng tin tưởng, là bản chất bên ngoài mà có thể cai trị được lực lượng vật lý tự nhiên. Tôn giáo chắc chắn có xu hướng về phía chủ nghĩa siêu nhiên bởi vì phần thưởng nào đó không phải là dễ dàng nhận được, đặc biệt là đòi hỏi về những phần thưởng không thể có, không tồn tại (như sự bất tử) hay ở một thế giới khác (cõi niết bàn). Những ý niệm về chúa trời đã sớm được nảy sinh trong sự phát triển của tôn giáo. Chúa trời là hiện thân của các đấng siêu nhiên sẽ chia sẻ với con người những ý thức và ước muốn; là sự hình dung của con người về một lực lượng nào đó có khả năng mang lại những phần thưởng (đặc ân) mà họ mong muốn. - Áp dụng lý thuyết lựa chọn hợp lý vào giải thích các hiện tượng tôn giáo: Lý thuyết của Stark và Bainbridge được dựa trên lý thuyết trao đổi, họ trình bày mối quan hệ rất tự nhiên rằng giữa người sùng bái và chúa trời của họ có một mối quan hệ trao đổi. Họ giả sử rằng khi những con người không thể tự mình thoả mãn được những mong muốn của họ, thì bản thân họ sẽ tự 8tìm kiếm để thoả mãn bằng cách tạo ra những mối quan hệ qua lại, trao đổi với người khác. Khi những người khác đó không thể thoả mãn những mong muốn của họ, họ sẽ sáng tạo ra những thứ khác để bù lại như là các đấng siêu nhiên-người có thể thoả mãn những mong muốn này. Ở đây, con người đã thực hiện một quá trình trao đổi với các đấng siêu nhiên-chúa trời: để được thoả mãn những ước muốn của mình thì họ phải đi theo chúa trời đó. Khi đó thì chúa trời mới thực hiện những yêu cầu của con người, đem đến cho con người những đặc ân ngay lập tức hoặc sau này. Nếu bằng mọi cách mà những đặc ân vẫn không thể đạt được thì chúa trời vẫn được hướng tới để che chở từ đó hình thành một mối quan hệ bền chặt giữa con người (người muốn được che chở) với chúa trời (người che chở). Tuy nhiên ngoài những điểm mà Stark và Bainbridge đã nói thì theo sự tự lĩnh hội được của Malinowski, con người sẽ chỉ thực hiện sự trao đổi với chúa trời nếu điều đó rẻ hơn hay hiệu quả hơn những giải pháp khác để tìm niềm vui và thực hiện mong muốn của họ. Đây chính là một sự lựa chọn duy lý hợp lý. Các tổ chức tôn giáo thực hiện sự độc quyền về các giáo lý tôn giáo trong lý luận giải thích các phần thưởng, đặc ân của chúa và có sự cạnh tranh giữa các giáo phái khác nhau. Từ đó, các tôn giáo mà có ảnh hưởng lớn sẽ thiết lập một liên minh thân thiết với nhà nước (chính phủ). Bởi lẽ, những chính phủ trong một xã hội như vậy nắm và sử dụng quyền lực đủ để giám sát việc thi hành sự độc quyền. Từ điểm này Stark và Bainbridge khám phá ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà thờ và nhà nước. Ở đây, nhà thờ và nhà nước đã thực hiện một sự trao đổi hợp lý, nhà thờ được đảm bảo độc quyền về giáo lý còn nhà nước sử dụng sự ảnh hưởng của nhà thờ để ổn định chính trị… Sự trao đổi này dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Stark và Bainbridge cũng đặt cơ sở các tiếp cận của họ lên lý thuyết trao đổi khi nói về các thầy tu trong các tổ chức tôn giáo khi thực hiện trao đổi những đặc ân, những giải thích và sự bù đắp đối với người khác. Những chuyên gia tôn giáo hay chính là những thầy tu tự cho mình là trung gian giữa 9con người và chúa trời, liên lạc tới con người những gì mà chúa trời đòi hỏi họ để đổi lấy những đặc ân và những sự đền bù lại của chúa trời cho họ. Bằng cách này những thầy tu và các tổ chức tôn giáo trở nên có sức mạnh đáng kể trong xã hội và có sức ảnh hưởng thông qua những khuôn mẫu và những tiêu chuẩn hành vi. Trong đó những đặc ân của tôn giáo thường là những thứ có thể đạt được trong tương lai xa, hoặc là sau khi chết. Vì thế mối quan hệ giữa những thầy tu, các tổ chức tôn giáo và những người sùng bái trở nên gần gũi, có xu hướng bền vững lâu dài. Do đó các tổ chức tôn giáo cũng có xu hướng tồn tại lâu dài và bền vững. Mối quan hệ mà những người sùng bái hướng tới với các thầy tu và tổ chức tôn giáo là sự tận tâm hơn là sự đòi hỏi về một sự đền bù trong tương lai xa. Điều này làm những thầy tu cùng với những tổ chức tôn giáo có quyền lực ảnh hưởng đặc biệt, thậm chí có khả năng kiểm soát và đặt tiêu chuẩn cho các hành vi xã hội. Họ đóng một vị trí trung tâm và giữ một vai trò xã giao quan trọng trong cấu trúc xã hội. Sherkat đã chia sẻ quan điểm rằng các yếu tố xã hội và văn hoá đóng vai trò rất quan trọng trong sự lựa chọn duy lý. Ngoài ra ông cũng nhắc nhở chúng ta rằng sở thích không giống như sự lựa chọn mặc dù có những trường hợp sự lựa chọn trùng hợp với sở thích của chúng ta. Sự lựa chọn tôn giáo của chúng ta đều được định hình bởi các hành động của những người xung quanh chúng ta; chính vì sự ảnh hưởng này mà đôi khi sự lựa chọn không phù hợp với những gì chúng ta muốn. Một số nhà lý thuyết đã bị thu hút bởi cách tiếp cận sự lựa chọn hợp lý, đặc biệt là Finke và Iannaccone, hai người đã làm việc với Stark vào những năm gần đây trong việc ứng dụng và phát triển nó vào một loạt hiện tượng tôn giáo. Trong phương pháp tiếp cận của mình, Iannaccone đã làm việc với nhà kinh tế học Becker và thừa nhận rằng nhiều hàng hoá tôn giáo không được phân phối ra thị trường. Đó là những thứ hàng hoá được sản xuất bởi chính những người tiêu thụ riêng - các tín đồ trong giáo hội, để phục vụ mục đích ăn uống, vui chơi giải trí… Một ý tưởng khác được Iannaccone giới thiệu là vốn 10 tôn giáo. Đây là sự tích luỹ tôn giáo về kỹ năng, kiến thức, sự nhạy cảm, sự đầu tư vào các mối quan hệ… và bất cứ điều gì được nâng cao bởi kinh nghiệm thu được qua các cuộc nghiên cứu về tôn giáo. Ông nhận ra rằng cổ phần tư bản càng lớn thì sự hài lòng của một cá nhân xuất phát từ các hoạt động tôn giáo càng lớn. Và dự đoán rằng sự chuyển đến một tôn giáo mới sẽ được thực hiện thường xuyên bởi người trẻ hơn là người già. Song người già có xu hướng tham gia vào các hoạt động trong tổ chức tôn giáo nhiều hơn người trẻ. Những dự đoán này đã được khẳng định bởi những dữ liệu thực nghiệm. Nói chung các nhà lý thuyết lựa chọn hợp lý có xu hướng nhấn mạnh phía cung chứ không phải phía cầu. Điều này trái ngược với giả định chung rằng tôn giáo thay đổi để đáp ứng những thay đổi trong ham muốn và nhu cầu của người tiêu dùng tôn giáo. Theo Finke và Iannaccone, tôn giáo thay đổi như là kết quả của sự phát triển trong việc cung cấp hàng hoá tôn giáo. Các mô hình mong muốn trong sự lựa chọn hợp lý của con người là tương đối ổn định. Con người đều muốn những điều giống nhau như: sự bảo mật, thoải mái, chất liệu tốt, vui chơi giải trí…  Tóm lại: Áp dụng của lý thuyết lựa chọn hợp lý, Stark và Bainbridge chủ yếu tập trung giải thích ba hiện tượng tôn giáo: sự trao đổi dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi giữa các tín đồ và chúa trời; sự liên minh mật thiết giữa nhà nước và nhà thờ và sự tác động của các thầy tu, tổ chức tôn giáo đến các mô hình hành vi của con người. Trong khoa học xã hội, có thể nói không một khung lý thuyết nào có thể lý giải được mọi tình huống hay hiện tượng trong đời sống xã hội vốn rất phức tạp và bị chi phối bởi những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi lý thuyết hay mô hình lý luận soi rọi ánh sáng vào một số khía cạnh nhất định trong đời sống xã hội nói chung, hay tôn giáo nói riêng. Sai lầm dễ nảy sinh khi người ta muốn áp dụng một mô hình lý luận duy nhất cho toàn bộ đời sống xã hội ở mọi nơi trên hành tinh và mọi lúc trong quá trình lịch sử của nhân loại. Theo cách nhìn 11 này, có thể nói lý thuyết lựa chọn hợp lý đã có những đóng góp đáng kể cho nỗ lực tìm hiểu đời sống tôn giáo của các xã hội. Lựa chọn hợp lý là một chủ thuyết lớn và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải thích các hiện tượng tôn giáo. Bên cạnh sự giải thích của chủ thuyết chức năng, thuyết tương tác tượng trưng thì các quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về các hiện tượng tôn giáo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTrình bày quan điểm của lý thuyết lựa chọn hợp lý về tôn giáo.pdf
Tài liệu liên quan