Trước hết, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án – cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp đồng và phải được lập thành văn bản. Các hình thức thỏa thuận qua thư, điện báo, Telex, Fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng tài. Ngay cả khi hợp đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải lập thành văn bản. Khi nộp đơn kiện cho trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải nộp kèm theo thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12583 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trọng tài thương mại - Một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài...
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể:
- Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
- Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham giai vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Thể hiện:
- Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
- Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
3.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực. Theo điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì quyết định của hội đồng sẽ bị hủy. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không có nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở thành vô nghĩa và không cần thiết. Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc cần áp dụng trước tiên khi tiến hành xem xét một vụ tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại.
3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện hoặc chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Điều này cho thấy, việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, tính độc lập của các trọng tài viên đối với các bên là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trọng tài viên phải có đủ cách điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Để trở thành một trọng tài viên của một trung tâm trọng tài, công dân Việt Nam cần hội tụ đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 12 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như không có bất kỳ lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm những quy định trên, trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài viên vụ tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào các tình tiết của vụ tranh chấp, xác mình sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các chứng cứ mà mình thu thập được chứ không thể bị chi phố bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Không ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của trọng tài viên. Quyết định của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
Tại điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 còn quy định: Nếu trọng tài viên không vô tư, không khách quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên đó sẽ bị hủy bỏ.
3.3. Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật
Đây được coi là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng cũng như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp quyền. Vì vậy, để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên – người được các bên có tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp phải căn cứ theo pháp luật.
Nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài. Tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan. Có như vậy mới được các nhà kinh doanh tín nhiệm.
3.4. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Có thể thấy rằng, thông qua thỏa thuận trọng tài, quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho họ. Cụ thể như:
- Các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng nào nào, hình thức trọng tài nào thì chỉ có trung tâm trọng tài đó và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết.
- Các bên lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có quyền giải quyết.
- Các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết thì chỉ có trọng tài viên duy nhất đó có quyền giải quyết.
- Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp.
- Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải quyết.
- Các bên có quyền thỏa thuận thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp là một trong những nguyên nhắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại. Và chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và trọng tài viên bắt buộc phải tuân theo.
3.5. Nguyên tắc giải quyết một lần
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà ngày nay, để các tranh chấp thương mại giữa các nhà kinh doanh có thể được giải quyết nhanh chóng và dứt điểm, các tổ chức trọng tài phi chính phủ đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó của các nhà kinh doanh.
Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.
Nếu quyết định của trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một trong các bên mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.
II. THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này có hiệu lực.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài, tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại, tranh chấp này phát sinh trong hoạt động thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và các bên có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Trên cơ sở Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về thẩm quyền của trọng tài thương mại thông qua 2 điều kiện trên:
Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phải là tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh
Như ta đã biết, trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa 1 bên là thương nhân với một bên là các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân), nếu có phát sinh tranh chấp thì Luật thương mại 2005 cho phép bên có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi (bên có hành vi dân sự) có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải quyết.
Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Ví dụ như: tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty hay tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau thực chất là tranh chấp thương mại hiểu theo nghĩa rộng vì tranh chấp này phát sinh từ hoạt động đầu tư với mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, loại tranh chấp nói trên không thuộc thẩm quyền của trọng tài vì không thỏa mãn điều kiện các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh (điều 2 Nghị định số 25/2004/NĐ – CP ngày 15/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh trọng tài thương mại) và cũng không thuộc loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Bởi vậy, tranh chấp này theo pháp luật Việt Nam hiện hành thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa dân sự, song bên có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải quyết. Tương tự, các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ cũng chỉ thuộc thẩm quyền của trọng tài khi các bên tranh chấp là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh.
Tóm lại, trọng tài thương mại Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Như vậy, so với pháp luật một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam ta không mở rộng hoàn toàn thẩm quyền của trọng tài thương mại.1
Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ
2.1. Thỏa thuận trọng tài
Trước hết, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án – cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp đồng và phải được lập thành văn bản. Các hình thức thỏa thuận qua thư, điện báo, Telex, Fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng tài. Ngay cả khi hợp đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải lập thành văn bản. Khi nộp đơn kiện cho trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải nộp kèm theo thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
2.2. Thỏa thuận trọng tài hợp lệ
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó không bị vô hiệu. Điều này có nghĩa là, ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
Sau đây, trên cơ sở điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, từ đó kéo theo việc loại trừ thẩm quyền của trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp trong những trường hợp này:
- Thứ nhất, tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại (ví dụ: tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa văn phòng luật sư hoặc công ty luật sư với doanh nghiệp. Pháp luật Việt Nam không quan niệm đây là tranh chấp kinh doanh, thương mại).
Với cách quy định này dường như nhà làm luật có sự trùng lặp giữa thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực với vụ việc không thuộc thẩm quyền của trọng tài? Bản thân lí do tranh chấp không thuộc hoạt động thương mại đã loại trừ thẩm quyền của trọng tài. Như vậy, quy định thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu trong trường hợp này thực sự không có ý nghĩa.
- Thứ hai, người kí thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền kí kết. Quy định này cần được hiểu ở hai khía cạnh.
Ở khía cạnh thứ nhất, một bên kí thỏa thuận trọng tài không có năng lực chủ thể (ví dụ: chi nhánh, văn phòng đại diện).
Ở khía cạnh thứ hai, người kí thỏa thuận trọng tài không phải là người đại diện hợp pháp cho pháp nhân hoặc kí thay cá nhân không được ủy quyền.
- Thứ ba, một bên kí thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự).
- Thứ tư, thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ về đối tượng tranh chấp hay tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung. (ví dụ: Điều khoản trọng tài ghi chung chung như “Tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại cơ quan trọng tài Việt Nam”).
Cốt lõi của thỏa thuận trọng tài là phải thể hiện rõ ý chí và sự thống nhất ý chí của các bên trong việc lựa chọn tổ chức trọng tài có thẩm quyền. Còn những sai sót về mặt kỹ thuật trong soạn thảo điều khoản trọng tài không làm sai lệch ý chí của các bên thì sẽ không không làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu. (ví dụ: Trong hợp đồng giữa một bên là doanh nghiệp của Việt Nam với một bên là doanh nghiệp nước ngoài có ghi: “Mọi tranh chấp phát sinh giữa các bên được giải quyết tại tòa án trọng tài Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam”. Thỏa thuận trọng tài này không bị coi là vô hiệu mặc dù khái niệm “tòa án trọng tài” không phù hợp với tên gọi thực của hình thức trọng tài mà các bên hướng tới. Đó là sai sót về mặt kỹ thuật nhưng không làm sai lệch ý chí của các bên trọng việc lựa chọn tổ chức trọng tài, đó là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên canh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Vì vậy, thỏa thuận này hoàn toàn có hiệu lực.
- Thứ năm, thỏa thuận trọng tài không được lập thành văn bản (ví dụ: Các bên thỏa thuận miệng, trao đổi qua điện thoại...)
- Thứ sáu, bên kí kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu khi thỏa thuận đó không thể hiện đầy đủ, thể hiện không đúng ý chí của các bên hoặc ý chí của các bên không phù hợp quy định của pháp luật. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu không tạo ra thẩm quyền cho trọng tài. Khi đó vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án.
III. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
Ưu điểm của trọng tài thương mại:
Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng Trọng tài cho thấy có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, quyết định của Trọng tài là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại Trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại.
Thứ hai, hoạt động của Trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện, do đó các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ/việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận, điều mà ít khi xảy ra ở Tòa án.
Thứ ba, trọng tài xét xử bí mật bởi tiến trình giải quyết của Trọng tài có tính riêng biệt. Hầu hết các quy định pháp luật về Trọng tài của các quốc gia đều thừa nhận nguyên tắc Trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ tư, khi xét xử, Trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của các chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền chọn Trọng tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt như licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chứng khoán…
Thứ năm, hoạt động xét xử của Trọng tài liên tục do đó tiết kiệm thời gian, chi phí và tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo, do đó dễ thích ứng hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Thực tiễn cho thấy giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, trong khi đó giải quyết tranh chấp tại Tòa án có trường hợp kéo dài mấy năm.
Thứ bảy, việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài đảm bảo tính bí mật cao và vì vậy sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc.
Việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi để tìm ra sự thật khách quan của vụ/việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Hơn nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra trong tương lai.
Với những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã ngày càng trở thành một phương thức tố tụng kinh doanh - thương mại hữu hiệu và được các bên lựa chọn bên ngoài tố tụng bằng Tòa án.
Nhược điểm của trọng tài thương mại.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh khỏi, đó là:
Thứ nhất, sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh chấp. Mà các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự quan tâm nhiều đến việc lường trước các tranh chấp sẽ phát sinh nên vẫn còn tình trạng mơ hồ về hình thức trọng tài thương mại nói riêng, cũng như các phương thức giải quyết tranh chấp khác nói chung.
Thứ hai, việc thực thi các kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài phần lớn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ thi hành mà không có cơ chế pháp lý vững chắc để đảm bảo thi hành và nếu có thì việc thực thi đó thường phức tạp và tốn kém.
Thứ ba, Tố tụng trọng tài so với tố tụng toà án nó cũng có những điểm yếu, đó là vì quyết định của trọng tài nhân danh ý chí tối cáo của các bên đương sự, không nhân danh quyền lực nhà nước nên đảm bảo thi hành cần đến sự tự nguyện của các bên vi phạm thì quyết định này cũng khó có thể thi hành được.
Thứ tư, là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, trọng tài có thể gặp những khó khan trong quá trình giải quyết tranh chấp, đặc biệt là những tranh chấp phức tạp, về những vấn đề như : xác minh thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án phán quyết của trọng tài, không có quyền kê biên khẩn cấp tạm thời đối với tài sản là đối tượng tranh chấp dẫn tới việc có thể kéo dài, không đảm bảo phong toả tàn sản kịp thời để phòng ngừa việc tẩu tán tài sản.
IV. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại chưa phổ biến ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài biết được những ưu điểm vảu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nên hầu hết các hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài thường có điều khoản cuối cùng “nếu có tranh ”
Nếu so sánh giữa ưu và nhược điểm thì việc giải quyết tranh chấp kinh tế qua trọng tài là con đường tốt hơn đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, số lượng giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hết sức nhỏ. Tại thành phố Hà Nội, tranh chấp kinh tế bằng hình thức trọng tài năm 2005, chỉ có 13 vụ, năm 2004, khoảng 10 vụ. ở TP Hồ Chí Minh – nơi có nền kinh tế sôi động, số lượng doanh nghiệp chiếm phần lớn so với cả nước, tuy nhiên, số vụ đưa ra giải quyết bằng trọng tài chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời sống thương mại ở nước ta. Theo chúng tôi, có ba nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng. Trong một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm nay, bên này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay đôi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa nhau ra xử lý bằng trọng tài hoặc toà án các bên đều không muốn. Theo số liệu củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trọng tài thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 9 điểm.doc