Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) xác định Cải cách một bước nền hành chính nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là: cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 19385 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiến hành chưa nghiêm minh, chưa thường xuyên, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến kém hiệu quả, ít tính giáo dục, răn đe, làm gương…Do vậy đạo đức công vụ, trách nhiệm của công chức chậm được nâng cao. Một bộ phận cán bộ, công chức sa xút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu của dân, của xã hội.
- Về thực hiện yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính còn chậm, chưa có sự thay đổi cơ bản trong phương thức lề lối làm việc của cơ quan hành chính và phong cách thực thi công vụ của cán bộ, công chức mà vẫn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ. Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính còn nhiều hạn chế làm cho năng suất lao động, hiệu quả công tác của công chức thấp, trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tóm lại, kết quả thực hiện chương trình CCHC trong thời gian qua tuy đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập.
3. Những tác động bất cập của quản lý hành chính đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Những hạn chế về CCHC như đã phân tích ở trên đã tạo ra những tác động bất cập, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những điểm nổi bật có thể chỉ ra như sau:
- Sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế nhiều khi thái quá và vô lý. Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Hệ thống pháp luật kinh tế trong cơ chế thị trường đã có bước phát triển, tuy nhiên vẫn chưa đồng bộ; Vai trò của Nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò Nhà nước là chủ đầu tư, điều này làm cho các kế hoạch của Nhà nước thiếu tính hướng dẫn nền kinh tế gắn với vận dụng nguyên tắc thị trường mà nặng về phân bổ đầu tư Nhà nước; hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ và các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại vẫn còn lạc hậu chứa nhiều nội dung mang tính bao cấp, bảo hộ hoặc thiên vị quá mức.
Trong điều kiện thực thi pháp luật của bộ máy Nhà nước chưa cao, những điều trên đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp hành chính thái quá, trái thẩm quyền, trái pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mưu cầu lợi ích cục bộ.
- Sự thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình và khả năng tiên liệu thấp của hệ thống thể chế và nền hành chính. Tính công khai, minh bạch của hệ thống thể chế và nền hành chính là yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với mỗi quốc gia trong quá trình gia nhập WTO. Tính minh bạch của hệ thống pháp luật bao gồm những yếu tố như sự công khai, sự chính xác, sự ổn định và khả năng tiên liệu được của những thay đổi trong chính sách và pháp luật và mục đích rõ ràng của chúng. Về khía cạnh công khai thì hệ thống pháp luật nước ta đã có những tiến bộ rõ nét, nhưng xét ở tính chính xác và ổn định thì hệ thống pháp luật và chính sách cần được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa, bởi vì sự thay đổi các văn bản pháp luật diễn ra khá thường xuyên và khả năng tiên liệu được của các văn bản pháp luật ở mức độ rất thấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu minh bạch, một trong những nguyên nhân chính là sự thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan và công chức nhà nước. Sự thiếu thông tin đã cản trở đáng kể việc tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động hoạch định, thực thi pháp luật và các chính sách, chương trình phát triển kinh tế- xã hội. Mặc dù ở nước ta đã thực hiện một số sáng kiến nhằm tăng cường sự tham gia và giám sát của người dân, như thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và hoạt động của các ban thanh tra nhân dân, tuy nhiên như vậy là chưa đủ và kết quả đạt được nói chung vẫn còn hạn chế.
- Tình trạng cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vẫn còn nặng nề. Việc giảm thiểu và từng bước xoá bỏ tình trạng các cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vừa là phương tiện vừa là mục đích của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta. Trong những năm qua, với những nỗ lực đáng kể từ cải cách thể chế, thủ tục, bộ máy cho đến hoàn thiện đội ngũ công chức, nước ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận về phương diện này, điển hình là việc thực hiện Luật Doanh nghiệp và việc áp dụng thí điểm cơ chế “một cửa” tại nhiều địa phương. Tuy nhiên, tình trạng người dân và doanh nghiệp bị gây khó dễ, sách nhiễu bởi các quy định, quy trình, thủ tục phiền hà cùng với nạn quan liêu, hách dịch, thiếu trách nhiệm, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn khá phổ biến, có chiều hướng gia tăng hoặc thành thông lệ, ảnh hưởng xấu, thậm chí nghiêm trọng, đến tình hình kinh tế và xã hội. Cho đến nay chi phí và thời gian gia nhập thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực; trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều rào cản từ những can thiệp gây khó dễ của các cơ quan nhà nước, nhất là tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp.
II. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách bộ máy hành chính nhà nước:
Sơ lược về CCHC: a. Từ thời phong kiến: * Triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497): Luật Hồng Đức chia lại hợp lí hơn về địa giới hành chính cả nước (gồm 13 đạo, sắp xếp bộ máy thành 6 bộ: Lại, Lễ, Hộ, Hình, Binh, Công). * Triều Minh Mạng (1820 - 1840): Chia nước thành 30 tỉnh và 1 kinh đô, xếp lại ngoài 6 bộ còn thêm 4 viện, bộ máy cai trị từ Triều đình đến Phủ đến Huyện đến xã. b. Việt Nam dân chủ cộng hoà (giành được độc lập dân tộc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945) + Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc Hội, Hội đồng nhân dân. + Cơ quan HC nhà nước (Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc CP, UBND tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, UBND cấp quận, huyện và xã, thị trấn). + Cơ quan Tư pháp: Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. c. Thời kỳ đổi mới Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do công tác tổ chức, cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng do vậy Đảng đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước tuy đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối, song nhìn chung còn cồng kềnh và chồng chéo. Khắc phục những hạn chế trên, đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 thể hiện sự nhận thức đầy đủ hơn về phân công, phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của Nhà nước. Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) xác định Cải cách một bước nền hành chính nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là: cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình CCHC, đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính phải đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch KT-XH 5 năm 1996- 2000. Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Theo đó, Nghị quyết của Đảng bổ sung 4 điểm quan trọng về cải cách hành chính là: - Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính; - Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Đổi mới chế độ công chức và công vụ (bao gồm sửa đổi quy chế thi tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ máy cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước); - Thành lập Toà án hành chính và thực hiện xã hội hoá đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công. Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) họp tháng 6 năm 1997 ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó, Chính phủ ban hành các quy chế thực hiện đan chủ ở cơ sở. Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), đã khẳng định tiếp tục tiến hành cải cách hành chính và đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, Đảng đã đi đến khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp và tư pháp. Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá, đẩy mạnh cải cách hành chính coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trên các mặt của hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức cán bộ, phương thức hoạt động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước; hiện đại hoá nền hành chính; đề ra chủ trương và giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới là: điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng… Đại hội X của Đảng (năm 2005) đã khẳng định tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội; thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phßng, chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Kết luận: CCHC là một quá trình liên tục đổi mới từ xưa tới nay.
2. Trọng tâm của cải cách bộ máy nhà nước là cải cách bộ máy hành chính nhà nước.
CCHC ở phương Tây còn gọi là cải cách chính phủ, ở Trung Quốc gọi là cải cách thể chế quản lý hành chính, nội dung không khác nhau bao nhiêu, đều nhắc đến các yêu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cơ cấu hành chính và các cơ cấu xã hội khác, hoặc quan hệ nội bộ của cơ cấu hành chính, điều chỉnh chức năng, tổ chức và nhân sự hành chính. Mục đích của CCHC là nâng cao hiệu suất hoạt động hành chính, thích ứng với những thay đổi, đòi hỏi của môi trường trong nước và quốc tế.
Đối với nước ta, đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ mới, nhiệm vụ CCHC nặng nề gấp đôi và đã trở thành bức xúc đối với tiến trình phát triển và đổi mới.
Hiện nay, mặc dầu đã có không ít thành tích cải cách, nhưng quản lý hành chính vẫn là khâu chậm trễ và nhiều khi cản trở những cố gắng phát triển, dù là về kinh doanh, đầu tư, sự nghiệp, hay dịch vụ đời sống. Không chỉ khâu thủ tục phiền hà, không dứt điểm làm tốn thời gian giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, mà còn nhiều chỗ chồng chéo về quyền hạn, không phân định rõ về trách nhiệm, không hợp lý về tổ chức, trình tự, thiếu nâng cao về trình độ nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm..., làm cho các hoạt động kinh tế và đời sống bị trì trệ, sửa đi và sửa lại nhiều lần, không kịp thời, kém hiệu quả. Các khâu hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải qua khung cửa bộ máy hành chính nhà nước thì mới thành hiện thực. Vì vậy, nếu không kịp thời đổi mới hoạt động hành chính thì nhịp độ và chất lượng của sự nghiệp phát triển đều bị ảnh hưởng, phát triển càng nhanh, càng rộng thì ảnh hưởng đó lại càng nghiêm trọng. Mặt khác, CCHC cũng là "đầu ra" của các cuộc cải cách khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, kể cả cải cách chính trị, trong cuộc đổi mới toàn diện đang tiến triển. Thực khó có thể hình dung nổi trong điều kiện thủ tục phiền hà, bộ máy trì trệ, nhân sự bất cập như một số nơi hiện nay lại có thể thực hiện được thông suốt những thay đổi rất căn bản từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần, từ những cơ quan sự nghiệp nhà nước sang các tổ chức sự nghiệp xã hội. Trong thời gian qua, CCHC đã đi sau cải cách kinh tế, đến thời gian tới phải "bứt" lên trước các cuộc cải cách khác thì mới có thể bảo đảm tiến trình đổi mới thực hiện thuận lợi.
Bộ máy nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước hiện nay còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải cải cách bộ máy nhà nước, trong đó, trọng tâm là cải cách bộ máy hành chính nhà nước bởi bộ máy hành chính là:
Là bộ máy chính, chủ yếu thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tóm gọn, đây là "cơ quan thực hiện".
Là đội ngũ thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Cột lại, đây là "người thực hiện".
Là nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính thống nhất, xuyên suốt, thứ bậc trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bó lại, đây là "nguyên tắc thực hiện".
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (kinh tế thời chiến) sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế thị trường định hướng XHCN). Trước đây, trong thời kì chiến tranh, bao cấp chưa tiến hành CCHC được vì những lí do lịch sử: tất cả vì tiền tuyến, vì thời đó những nhu cầu mang tính xã hội còn ít ỏi (kinh doanh, sổ đỏ, xây dựng nhà ở, thu hút đầu tư...còn chưa có), đời sống nhân dân khó khăn cho đến khi bước vào thời kì đổi mới xuất hiện và phát triển nhiều nhu cầu…Nền kinh tế từ quốc doanh và tập thể là chính chuyển sang nền kinh tế 6 thành phần (Nghị quyết Đại hội Đảng IX), đó là: Kinh tế nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa và hội nhập với khu vực và trên thế giới. - Việt Nam là thành viên của khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ tháng 7/1995, đang tiến tới thực hiện các cam kết nhằm tự do hoá thương mại của các nước ASEAN: cắt giảm thuế quan, loại bỏ rào cản thương mại cho trao đổi hàng hoá giữa các nước thành viên. - VN đang đề nghị trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hội nhập kinh tế quốc tế. - Đây là nhiệm vụ mới, khó khăn nếu bản thân Nhà nước không đổi mới tổ chức và hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý thì không thể hoàn thành nhiệm vụ trên. Do đó, yêu cầu tất yếu phải đổi mới để phù hợp với đổi mới kinh tế. Đổi mới về kinh tế kết hợp đổi mới về quản lý hành chính. Thực tiễn tổ chức, hoạt động quản lý HC nhà nước: Bên cạnh những thành tựu trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN còn tồn tại những yếu kém, hạn chế như: bệnh quan liêu, xa dân, quản lý thiếu tập trung thống nhất, trật tự kỷ cương buông lỏng, bộ máy cồng kềnh và giảm sút hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Ví dụ: trước tháng 11/1986 TW có 76 bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ; đến trước 9/2002 TW có 46 bộ ngành và cơ quan thuộc CP; đến nay giảm chỉ còn; Ví dụ: Bộ NN&PTNT gồm: Nông nghiệp, lương thực thực phẩm, lâm nghiệp, thuỷ lợi và tổng cục cao su VN. Nhập bộ điện than, cơ khí luyện kim, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và tổng cục hoá chất thành bộ Công nghiệp, hiện nay các bộ này hoạt động bình thường, có hiệu quả.
Tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ: Trên thế giới hiện nay diễn ra những biến đối rất nhanh chóng, to lớn đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước dẫn đến thích ứng kịp thời với diễn biến tình hình và nhịp điệu phát triển của thời đại. - Trong vòng 50 năm qua, thành quả của biến đổi về KHCN bằng sự biến đổi của tất cả thời gian trước cộng lại. - Hàn Quốc: Chính phủ điện tử năm 2004 công khai hoá việc xử lí các vấn đề của dân, của doanh nghiệp trên mạng internet (theo dõi được tiến độ và kết quả cơ quan HC giải quyết công việc của mình). - Singapo: năm 1999 áp dụng ISO 9000 trong toàn bộ bộ máy hành chính. Kết luận: CCHC là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan (không đổi mới sẽ bị tụt hậu).
Phương hướng cải cách BMHCNN trong tương lai:
Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải được thực hiện với những định hướng, quan điểm phù hợp với thực tiễn của đất nước, phù hợp với những mục tiêu và nội dung của chương trình cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ trong từng giai đoạn. Một số định hướng, quan điểm cụ thể như sau:
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trên cơ sở bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm một cách hợp lý giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến quyền hành pháp.
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước đặt trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước phải được tiến hành đồng bộ với các nội dung: cải cỏch thể chế; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; đổi mới chế độ tài chính công.
-Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong xu thế hội nhập quốc tế; góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Để phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, quán triệt những thách thức và khắc phục những hạn chế như đã phân tích ở trên, CCHC tại Việt Nam cần thực hiện tốt những vấn đề sau đây:
- Về cải cách hệ thống thể chế: Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước. Những công việc chủ yếu phải làm là loại bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung những thể chế lạc hậu, bất cập, đồng thời thiết lập các thể chế còn thiếu để điều chỉnh các quan hệ kinh tế- xã hội mới phát sinh theo tiến trình phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng tốt các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, dễ đoán trước và phù hợp với luật lệ quốc tế. Trước mắt cần xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật mới như Pháp lệnh về Đối xử quốc gia, Đối xử Tối huệ quốc và quyền tự vệ; sửa đổi các Luật Thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Ngân sách Nhà nước, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động… Bên cạnh việc hoàn thiện về số lượng và nội dung của hệ thống thể chế, cần tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch trong việc soạn thảo, ban hành và thực thi nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của thể chế. Quá trình xây dựng và thực thi thể chế cần có sự tham gia sâu rộng và giám sát thoả đáng của các chủ thể hữu quan, đặc biệt là của người dân và doanh nghiệp.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách thủ tục hành chính, hợp lý hóa trình tự giải quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ quan công quyền với xã hội dân sự, với công dân, với doanh nghiệp. Khắc phục những hạn chế trước đây, cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn tới phải được được thực hiện song hành với những mặt khác của cải cách hành chính như đẩy mạnh phân cấp, xã hội hoá các dịch vụ công, cải cách tiền lương, ứng dụng công nghệ điện tử và viễn thông… Mục tiêu cơ bản của cải cách là đơn giản hoá các thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp cũng như cho cơ quan nhà nước trong giải quyết công việc.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Hiện nay, hệ thống tổ chức lãnh đạo của Đảng và tổ chức quản lý của Nhà nước được hình thành song song, kể cả cấp ra quyết định Trung ương và các cấp địa phương. Gần như bên Nhà nước có bộ phận nào thì bên Đảng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tại sao trọng tâm cải cách bộ máy nhà nước là cải cách hành chính.doc