Một trong những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau, đó là vấn đề niên đại của Quốc triều hình luật. Điều này có vẻ như thuần tuý kỹ thuật, nhưng thực ra có tầm quan trọng hàng đầu, vì nó có quan hệ trực tiếp với chủ đề đang được xem xét: tính pháp điển hoá sâu sắc của nó thuộc truyền thống đặc biệt quý báu của quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện pháp luật với tính cách là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền văn hoá Việt Nam.
Đinh Gia Trinh trong tác phẩm “Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam” đã dứt khoát lấy năm 1483 làm niên đại và đặt tên cho Bộ luật là Bộ luật 1483. Cũng theo Đinh Gia Trinh thì, Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1460-1497) trên cơ sở tập hợp có hệ thống các luật lệ của các vua nhà Lê trước đó và có sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản mới[19].
Tác giả người Pháp, R. Deloustal, Chánh thông dịch viên tại Sở Tư pháp Đông Dương, người dịch sang tiếng Pháp Quốc triều hình luật theo Hình luật chí của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí và hiệu đính, bổ sung theo Lê triều hình luật mà trên bìa có đề 1777 là năm in, đã đem năm in 1777 làm niên đại của Bộ luật Hồng Đức[20].
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2200 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Truyền thống pháp điển hóa qua các triều đại phong kiến Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhà Lý, cũng phải ở năm thứ 33 của bản triều, tức năm 1042 và đến đời vua thứ hai - Lý Thái Tông mới sai Trung thư xây dựng Hình thư - bộ luật thành văn đầu tiên mà lịch sử biết đến của nước ta. Trong khi xây dựng bộ luật, việc tham khảo, tiếp thu các chế định pháp luật ra đời trước đó nhiều thế kỷ (ban bố năm 653 của nhà Đường[4]) và vẫn đang có ảnh hưởng lớn đối với các triều đại về sau ở ngay Trung Quốc, là điều dễ hiểu và cần thiết. Điều đó không phụ thuộc vào việc trước đó luật nhà Đường đã có ảnh hưởng ở Việt Nam như thế nào.
Trong chỉ dụ của mình, Lý Thái Tông chỉ ra một cách khái quát về nguồn pháp luật cần được xem xét, san định là “luật lệnh” và trước hết phải là “luật lệnh” của bản thân triều Lý. Đó chỉ là những luật lệnh có tính đơn hành. Chính vì những luật, lệnh ấy chỉ ở dạng đơn hành nên mới cần san định, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra loại bài, biến thành điều khoản để ban hành thành sách (bộ luật). Đúng như Phan Huy Chú đã chỉ rõ: “Nước Việt ta, các triều dựng nước đều định hình chương, nhà Lý có ban Hình thư, nhà Trần có định hình luật đều đã tham chước xưa nay, để nêu thành phép tắc lâu dài”[5].
Nói là “tham chước xưa nay” thì có thể hiểu rất rộng, vừa của trong nước, vừa của nước ngoài, vừa từ thời Bắc thuộc hoặc các vương triều Hán, Tùy, Đường của Trung Hoa. Dù là “san định luật lệ” hoặc “tham chước xưa nay” thì vua Lý Thái Tông cũng chỉ đề cập đến nội dung của vấn đề có tính nguyên tắc, dành cho người được giao việc vừa là một địa bàn rất rộng để lựa chọn, cân nhắc, vừa không yêu cầu phải đặc biệt lưu ý đến một chủ thể cần được ưu tiên đặt lên hàng đầu nào.
Sau khi Hình thư được ban bố, các đời vua Lý sau có bổ sung. Chẳng hạn, năm 1125, vua Nhân Tông có chiếu: “Phàm kẻ đánh người đến chết thì đày làm khao giáp, đánh 100 trượng, thích 50 chữ vào mặt”[6]. Năm 1139, vua Anh Tông định phép chuộc ruộng, nhận ruộng, trong đó có ý “có kẻ tranh nhau ruộng ao, dùng khí giới đánh người chết hay bị thương thì bị 80 trượng, xử tội đồ lấy ruộng ao trả lại cho người chết hoặc bị thương”. Giết người hoặc làm chết người mà chỉ bị những hình phạt như trên đã bị Ngô Thì Sỹ, nhà sử học thế kỷ 18 phê phán: “sát nhân giả tử” là phép cổ. Nay tội giết người mà cũng xử phạt như tội đánh người bị thương, thật là không có thứ bực, mất cả sự cân nhắc nặng nhẹ…[7].
Xét từ góc nhìn pháp điển hóa, pháp luật đời Lý nói chung và Hình thư nói riêng, trực tiếp là chỉ dụ của vua Lý Thái Tông sai Trung thư san định luật lệnh phải được xem là một sự kiện đặc sắc. Đáng chú ý, lý do của việc san định luật lệnh, ban bố Hình thư là tình trạng việc kiện tụng trong nước nhiều phiền nhiễu, khắc nghiệt đối với dân, thậm chí còn gây oan uổng đối với dân và đây không phải là sự oan sai thông thường mà là một sự oan sai quá đáng và vua lấy làm thương dân. Điều này nói lên đầy đủ đạo lý của chủ trương san định luật lệ, ban bố Hình thư, một chủ trương thấm đậm tình người của người đứng đầu triều đại. Vua không ra chỉ dụ chung chung thuần túy đạo lý mà cùng với chủ trương san định luật lệ, nhà vua còn chỉ rõ cách thức phải theo để đạt được mục đích: san định luật lệnh - tham chước[8] cho thích dụng với thời thế - chia ra loại bài - biên thành điều khoản - làm thành sách hình thư - của một triều đại - để cho người xem dễ hiểu.
Một chỉ dụ hoàn chỉnh về nội dung và nói theo ngôn ngữ ngày nay, đây là một chỉ dụ thật đặc sắc về pháp điển hóa. Nhìn bằng con mắt đời nay cũng thấy khó mà bổ sung, thêm bớt gì vào đây, từ phương diện đạo lý đến từng bước đi, quy trình phải thực hiện và kết quả phải đạt tới[9].
Theo quan điểm này, việc làm đầu tiên là phải san định luật lệ. “San định luật lệ” là “sửa chữa cho gọn và quy định cho nhất trí”[10]. Một định nghĩa khác coi “san định là sửa sang lại một văn bản cổ bằng cách bỏ đi những đoạn cho là không hợp, xác định lại những chỗ còn nghi ngờ, sắp xếp lại”[11]. Riêng từ “san” được Đào Duy Anh định nghĩa: “dọn bớt đi cho gọn”[12]. Tìm thuật ngữ tương đồng trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 2002) thì đó là “rà soát”, “chỉnh lý”... (các điều 8, 26, 45a). Một công việc quan trọng được tiến hành song song với việc “san định” luật lệnh là “tham chước xưa nay”, nghĩa là “thêm bớt cho vừa”[13]. Trên cơ sở xem xét, tham khảo, so sánh, tra cứu các thông tin đủ loại cần thiết nhằm làm sao cho “thích dụng” với thời thế. Thuật ngữ “thích dụng” ở đây được dùng thật “đắc địa”, tức phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của công việc thực tại, thi hành, áp dụng pháp luật. Từng thuật ngữ, từng từ được dùng, được đặt rất đúng chỗ với sự diễn đạt cô đọng, súc tích, chứng tỏ nhận thức về pháp điển hóa của nhà vua, của triều đình nhà Lý thật sâu sắc, chuẩn xác, theo một lô gíc chặt chẽ. Mục tiêu rất rõ, nhưng hoàn toàn không dễ dàng. Sự thích dụng với thời thế cũng phải “để cho người xem dễ hiểu”.
Yêu cầu này tưởng như là bình thường, giản đơn, thật ra lại chính là biểu hiện của một thuộc tính, của một nhân cách mang đậm tính nhân văn, nhân bản, cũng có thể nói là tính đại chúng của người đứng đầu một nước trong xã hội phong kiến, vương quyền. ở La Mã trước đây có nguyên tắc: một người không được lấy lý do không biết pháp luật để vi phạm, làm trái pháp luật. Pháp luật do nhà vua ban hành, người dân có nghĩa vụ phải biết và nghiêm chỉnh chấp hành; nếu làm trái pháp luật, họ phải bị trừng phạt. Các vua nhà Lý về mặt này có thái độ hoàn toàn khác, Lý Thánh Tông đã chỉ ra điều đơn giản nhưng thật cơ bản: dân vì không hiểu luật mà mắc vào tội. Cũng vì vậy, vua lấy làm thương và chỉ đạo cho cấp dưới phải khoan hồng, dù tội nặng hoặc nhẹ. Cụ thể: Lý Thánh Tông (1023-1072), đời vua thứ ba lên ngôi năm 1054, mùa hạ, tháng tư, khi vua nghe xử kiện ở điện Thiên Khánh, Đổng Thiên công chúa đứng hầu bên, vua chỉ vào công chúa mà bảo ngục lại rằng: “Ta làm cha mẹ dân, lòng yêu dân cũng như yêu con ta đây. Nhân dân vì không biết luật mà sa vào hình pháp, ta rất thương. Từ nay về sau, không cứ tội nặng, tội nhẹ, đều nên khoan hồng”[14].
Có thể nói, san định luật lệnh, tham chước xưa nay là khâu cơ bản, quan trọng của hoạt động pháp điển hóa của bất kỳ thời đại nào; nhưng không phải bao giờ nó cũng nhận được sự quan tâm đầy đủ, thích đáng của các ông vua, vị chúa và nói chung của các nhà lập pháp. Và có thể khẳng định, cách đây 1000 năm mà quan niệm của Lý Thái Tông và nói chung của triều đại nhà Lý về pháp điển hóa không khác gì nhiều lắm so với quan niệm ngày nay. Thật đáng trân trọng và tự hào.
Thực tế lịch sử giúp chúng ta thấy được tất cả tính đặc sắc riêng biệt, tân kỳ, nếu không nói là sáng tạo của nền pháp luật dân tộc đời Lý với Hình thư của Lý Thái Tông nói riêng và việc thi hành, áp dụng nó xứng đáng trở thành niềm tự hào của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam trong những điều kiện lịch sử không nhẹ nhàng, thanh thoát sau một ngàn năm Bắc thuộc. Đó là nền pháp luật mang đậm tính nhân văn, nhân bản thể hiện đầy đủ tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, tự tôn dân tộc, đặc sắc riêng biệt không có dấu ấn của nền pháp luật Bắc thuộc hoặc của phương Bắc mà mang tính chất đối lập; đối lập với chính hệ thống pháp luật của quốc gia đã thống trị mình hơn cả ngàn năm. Nền pháp luật đó ngay từ đầu mang tính pháp điển hóa, biết tiếp thu, kế thừa, tham chước xưa nay để trở thành cái riêng, khác của mình mở đầu cho truyền thống pháp điển hóa hệ thống pháp luật Việt Nam mang đậm tính nhân văn, nhân bản và theo cách nói của nhà sử học Ngô Sỹ Liên, là “vua thành thực thương dân, khoan rộng việc hình, cũng là vua tôi thân nhau, không ngăn cách trên dưới, phong độ trung hậu, dễ dãi có thể trông thấy được”[15].
2. Bộ luật Hồng Đức và truyền thống pháp điển hóa pháp luật Việt Nam
Tiếp sau nhà Lý là các triều đại Trần, Lê, Nguyễn lần lượt trị vì đất nước hơn 700 năm (1226 -1945). Mỗi triều đại trong những điều kiện lịch sử cụ thể theo cách của mình đều tiến hành pháp điển hóa và ban bố các các văn bản pháp điển hóa: nhà Trần có Hình luật, nhà Lê có Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng ĐứcB), nhà Nguyễn có Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long).
Cũng với những văn bản pháp điển hoá, “theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, năm 1230, vua Trần định thể lệ làm ra các sách chép về việc hình. Năm 1244, lại định hình luật một lần nữa. Năm 1341, vua Trần Dụ Tông giao cho Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu cùng soạn ra “Hình thư” để ban hành”[16]. Nhưng pháp luật triều Trần bị đương thời và cả hậu thế chê trách. Theo sách “Cố tự sao” của Trần Cương Trung mà Phan Huy Chú đã chép lại thì luật hình đời nhà Trần rất nghiêm. Kẻ trộm cắp và nô tỳ trốn đi khi bị bắt đều phải chặt ngón chân và giao cho chủ cũ được toàn quyền định đoạt về định mệnh hoặc cho voi giày[17]. Về mặt đó, pháp luật nhà Trần thua kém pháp luật nhà Lý. Thêm nữa, “nhà Trần được nước là do cướp ngôi vua nhà Lý, về hình pháp không lập ra kỷ cương phép tắc gì, chỉ tuỳ ý định mà buộc tội nặng nhẹ, hình phạt thảm khốc đến là cùng”[18].
Pháp luật nhà Lê, tiêu biểu là Bộ luật Hồng Đức, pháp luật nhà Nguyễn, tiêu biểu là Bộ luật Gia Long vốn thuộc hai triều đại, hai dòng họ trị vì đất nước gần như tiếp liền nhau và đều là kết quả của những công trình pháp điển hoá công phu với kỹ thuật lập pháp đạt trình độ cao. Tuy nhiên, người ta tranh luận nhiều về tên gọi, niên đại của Bộ luật Hồng Đức còn vấn đề này không đặt ra đối với Bộ luật Gia Long vì tính quá rõ ràng của nó.
2.1. Niên đại của Bộ luật nhà Lê
Một trong những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau, đó là vấn đề niên đại của Quốc triều hình luật. Điều này có vẻ như thuần tuý kỹ thuật, nhưng thực ra có tầm quan trọng hàng đầu, vì nó có quan hệ trực tiếp với chủ đề đang được xem xét: tính pháp điển hoá sâu sắc của nó thuộc truyền thống đặc biệt quý báu của quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện pháp luật với tính cách là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền văn hoá Việt Nam.
Đinh Gia Trinh trong tác phẩm “Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam” đã dứt khoát lấy năm 1483 làm niên đại và đặt tên cho Bộ luật là Bộ luật 1483. Cũng theo Đinh Gia Trinh thì, Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1460-1497) trên cơ sở tập hợp có hệ thống các luật lệ của các vua nhà Lê trước đó và có sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản mới[19].
Tác giả người Pháp, R. Deloustal, Chánh thông dịch viên tại Sở Tư pháp Đông Dương, người dịch sang tiếng Pháp Quốc triều hình luật theo Hình luật chí của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí và hiệu đính, bổ sung theo Lê triều hình luật mà trên bìa có đề 1777 là năm in, đã đem năm in 1777 làm niên đại của Bộ luật Hồng Đức[20].
Theo Vũ Thị Nga, người có công đối chiếu và phát hiện sự tương đồng về lời văn của Quốc triều hình luật với lời văn của nhiều luật, lệnh, chỉ do chính Lê Thái Tổ ban bố, đã khẳng định: theo ghi chép của chính sử về các sự kiện lập pháp của nhà Lê sơ, có thể nhận định rằng Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều vua Lê Thái Tổ[21].
Một số tác giả khác, từ Vũ Văn Mẫu, Hầu Văn Liêm, Nguyễn Quang Quỳnh đến InsuYu, mỗi người đều có những nhận định của mình về niên đại này.
Trong số các khẳng định, nếu dứt khoát cho rằng Quốc triều hình luật được ban hành năm 1777 như tác giả người Pháp thì rõ ràng không đủ thuyết phục, vì, phải đồng ý với Vũ Văn Mẫu, khi ông viết: đến năm 1777, vào quãng thời Lê Mạt, vận nhà Lê đã suy vi, giặc cướp nổi lên như ong, trong triều thì chúa Trịnh cướp quyền đâu phải lúc nhà Lê san định và ban hành bộ luật mới[22]. Lấy năm 1483 để khẳng định và đặt tên cho Quốc triều hình luật như Đinh Gia Trinh cũng có phần khiên cưỡng, vì theo Hầu Văn Liêm cũng như một vài tác giả khác, 1483 chỉ là năm Lê Thánh Tông ra lệnh soạn thảo Bộ luật[23]; còn khẳng định Quốc triều hình luật được ban hành dưới triều Lê Thái Tổ e còn quá sớm. Lê Thái Tổ chỉ ở ngôi có 5 năm. 5 năm để bắt tay vào xây dựng triều đình mới và tổ chức nhân dân xây dựng lại xã hội Đại Việt mới, khi mọi việc vẫn còn lạ lẫm, mới mẻ thì thật khó có thể xây dựng, ban hành được cả bộ luật lớn, bảo đảm như Quốc triều hình luật. Tất nhiên, trong 5 năm trị vì đất nước, Lê Thái Tổ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và thông tin, theo ngôn ngữ ngày nay, đó là những văn bản đơn hành về từng lĩnh vực, từng loại sự việc.
Tất nhiên, chúng ta không được lẫn lộn: với bề dày chiến đấu, với tư cách thủ lĩnh phong trào, sau ngày chiến thắng, Lê Lợi trở thành Lê Thái Tổ với niên hiệu Thuận Thiên, nhân danh trời đất, Lê Thái Tổ có thể có nhiều ý tưởng về xây dựng triều đại họ Lê, xây dựng đất nước. Lê Lợi có thể và trên thực tế, vạch ra nhiều ý tưởng cả về mặt lập pháp là lĩnh vực mới mẻ, còn rất ít kinh nghiệm. Có lần, Lê Thái Tổ đã chỉ ra cho triều đình, bá quan: “từ xưa đến nay, việc cai trị trong nước tất phải có phép, nếu không sẽ loạn. Bởi thế, nên bắt chước đời xưa mà dựng phép, để dạy tướng tá, quan quân và thứ dân, khiến cho đều biết đâu là điều thiện, điều ác. Điều thiện thì làm, điều ác thì tránh, không đến nỗi phạm pháp. Vua ban tờ chiếu rằng: Đạo kinh luân, thiên hạ phải tính ban đầu để yên lúc cuối, phải lập pháp luật để lưu về sau”[24].
Đúng là ngôn từ của một vị vua khai sáng, mở đầu cho một triều đại. Nhưng từ ý tưởng lớn lao, tốt đẹp đó đến một văn bản mang đậm tính pháp điển hoá cao như Quốc triều hình luật thì không đơn giản. Và nói đến pháp điển hoá phải thấy rằng, có thể và hoàn toàn hợp logic là dù Quốc triều hình luật ra đời vào triều vua nào, Lê Thái Tông (1434-1442), Lê Nhân Tông (1453-1459), hoặc Lê Thánh Tông (1460-1497), thì những quy định và có khi cả luật, lệnh, chỉ do Lê Thái Tổ ban hành với tư cách là những văn bản đơn hành vẫn có thể được thu hút vào Bộ luật trên cơ sở san định, bảo đảm sự thống nhất nội tại của toàn bộ luật. Cũng vì vậy, không nên ngạc nhiên nếu Quốc triều hình luật với tính cách là một sản phẩm pháp điển hoá mãi đến đời Nhân Tông hoặc Thánh Tông mới được ban hành mà nội dung lại có những quy định, những luật, lệnh ban hành từ đời Lê Thái Tổ.
Đó không chỉ là cách làm luật và làm pháp luật nói chung của người xưa, của cha ông chúng ta, mà ngày nay cũng vậy. Đọc Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình ta sẽ thấy không chỉ nhiều ý tưởng mà cả lời văn, quy định của những văn bản pháp luật hết hiệu lực thi hành đã được thu hút vào các văn bản pháp luật này. Và cũng không nên quá ngạc nhiên nếu ta gặp nhiều chế định, khái niệm của pháp luật dân sự La Mã vẫn còn chỗ trong Bộ luật Dân sự. Đời sống hiện thực pháp luật là như vậy.
Trở lại với ý tưởng pháp điển hoá của Quốc triều hình luật, điều hoàn toàn có thể khẳng định và đa số các tác giả đã phát biểu ý kiến về niên đại và về Quốc triều hình luật cũng đều thống nhất rằng, Quốc triều hình luật không phải là công trình của một đời vua, cũng không phải được ra đời như sản phẩm của một hoạt động lập pháp đơn lẻ, cá biệt, đơn hành. Nó là thành quả trí tuệ trên cơ sở phản ánh thực tế đời sống xã hội Việt Nam tham chiếu xưa nay của cả triều Lê, mà chủ yếu là của 4 đời vua đầu triều thời Lê sơ: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông.
2.2. Bộ luật của nhà Lê mang tên gì?
Đây cũng là vấn đề không đơn thuần chỉ có ý nghĩa chính thức, văn bản học xét theo nghĩa thông thường. Mọi văn bản pháp luật được ban hành đều có tên gọi nhất định và đi vào lịch sử với tên đó. Đồng thời, do mối quan hệ đặc thù, riêng biệt của văn bản pháp luật với người chủ trì, người đề xướng, người có thẩm quyền ban hành mà văn bản pháp luật có thể mang tên không chính thức, nhưng lại rất phổ thông trong dư luận, trong dân chúng và cả trong lịch sử. Hoàng triều luật lệ của nhà Nguyễn không chỉ được gọi theo tên chính thức là Hoàng triều luật lệ mà còn được gọi là Luật Gia Long, không chỉ vì nó được ban hành trong đời vua đầu tiên nhà Nguyễn - Gia Long mà còn vì tên tuổi Gia Long gắn bó mật thiết với Bộ luật, từ ý tưởng ban hành đến nội dung, tư tưởng cơ bản của Bộ luật và cả sự chỉ đạo trực tiếp với những chỉ dụ cụ thể, rõ ràng và cũng chính vua Gia Long là người đọc duyệt cuối cùng. Trong lời tựa đầu của Bộ luật, chính Gia Long đã viết “Đích thân Trẫm tu chỉnh lại sau cùng…”[25].
Cuốn Almanach “Những nền văn minh thế giới” do Nhà xuất bản văn hoá - Thông tin xuất bản năm 1995 có mục “Những Bộ luật cổ nổi tiếng thế giới” có giới thiệu 7 bộ luật của các nước, trong đó có Bộ luật Hammonrabi là bộ luật của vương triều thứ nhất Babylone (thế kỷ XVIII – XVII TCN), Bộ luật Manu của ấn Độ (giữa thiên niên kỷ thứ hai TCN), Bộ luật Napoleon (1804) đều được gọi theo tên của người trị vì đất nước ở thời điểm các bộ luật này được ban hành. Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng giới thiệu về một số bộ luật Juxtinian của đế quốc Đông La Mã do Juxtiniannus đứng đầu…
Như vậy, việc dùng danh xưng của các nhân vật vốn thường là những người đứng đầu các quốc gia đặt tên cho các bộ luật lớn không phải là những hiện tượng cá biệt, ngẫu nhiên, riêng lẻ ở một vài nước mà khá phổ biến, được thừa nhận rộng rãi, có cơ sở khách quan và thường trong thời gian dài, gắn liền với lịch sử của giai đoạn được ban hành và được lưu truyền lâu dài trong lịch sử quốc gia, có khi là của khu vực, châu lục hoặc thế giới. Đó là sự thừa nhận không phải do áp đặt mà theo cách suy tôn, tôn vinh và do có sự gắn bó của tên tuổi cá nhân, nhân vật lịch sử với các văn bản pháp luật cũng đi vào lịch sử như một hiện tượng in dấu ấn sâu sắc vào thời đại của mình và của một đất nước…
Ở Việt Nam, Hoàng Việt luật lệ - Bộ luật của nhà Nguyễn được thừa nhận rộng rãi là Bộ luật Gia Long không xuất hiện vấn đề gì phải làm rõ hoặc bàn thảo, còn tên gọi Hồng Đức của Quốc triều hình luật lại được đặt thành vấn đề phải xem xét. Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, tại trang 266 có mục từ “Bộ Quốc triều hình luật” - tên khác Bộ luật Hồng Đức. Từ điển này viết: “việc xác định thời điểm ban hành Bộ Quốc triều hình luật vẫn chưa được khẳng định dứt khoát. Theo ý kiến nhiều nhà sử học thì Bộ luật đã được khởi thảo từ những năm đầu của triều Lê, được bổ sung hoàn chỉnh trong suốt triều đại Lê, trong đó có những đóng góp to lớn của Lê Thánh Tông…”. Nội dung của đoạn văn trên trong Từ điển phản ánh khá trung thực thực trạng ý kiến của các chuyên gia về ngày, tháng hay đúng hơn, về thời điểm ra đời của Bộ luật. Điều đáng tiếc trong khi thuật lại như vậy, tác giả đã không chú ý đến một thuật ngữ làm sai lệch cả nội dung trình bày: khởi thảo.
Để xác định niên đại của một văn bản pháp luật, kể cả luật cơ bản là Hiến pháp, nói chung, người ta lấy ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua chính thức và ngày có hiệu lực pháp luật. Nếu nói là “khởi thảo” thì việc đó chưa có quan hệ gì nhiều với niên đại của văn bản pháp luật đó. Bởi, nói “khởi thảo” là nói đến thời điểm bắt tay vào việc. Từ sự “khởi thảo” - bắt đầu xây dựng dự án luật cho đến ngày hoàn thành dự thảo, khoảng thời gian thường dài, ngắn khác nhau nhưng điều đó không quan trọng, không có ý nghĩa về mặt pháp lý đối với việc thi hành nó. Vấn đề cơ bản của một văn bản luật, thời điểm, niên đại được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức thông qua mới đáng quan tâm, nhất là thời điểm văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành.
Qua nội dung, lời văn trình bày của Từ điển Bách khoa Việt Nam ta thấy, có vẻ như việc Quốc triều hình luật được “khởi thảo” từ những năm đầu của triều Lê và điều đó có ý nghĩa quyết định để xác định niên đại của nó. Đây thực sự là một sự hiểu lầm đáng tiếc, nhất là khi nó lại được đưa ra tại Từ điển bách khoa Việt Nam làm căn cứ cho sự phân vân về niên đại của Bộ luật vốn quan trọng, tiêu biểu như Quốc triều hình luật. Vấn đề duy nhất có ý nghĩa quyết định để xác định niên đại của Bộ luật này phải là việc nó chính thức được đời vua nào của triều đại Lê thông qua.
Ở đây, các tác giả của Từ điển bách khoa Việt Nam đã không phát hiện một sự hiểu nhầm lớn vì không phân biệt hai khái niệm: văn bản đơn hành và văn bản pháp điển hoá, nhất là bộ luật. Thật ra, nên hiểu mỗi vị vua nhà Lê, nhất là ngay từ những ngày mở đầu triều đại như Lê Thái Tổ hoặc các vị vua sau - Thái Tông, Nhân Tông trong trị vì, điều hành công việc triều đình đều tất yếu phải ban hành nhiều luật, lệnh, chỉ. Nếu vị vua nào chủ trương xây dựng một văn bản pháp luật quy mô liên quan đến nhiều lĩnh vực, có tính tổng quát, thì đương nhiên, việc xây dựng dự án luật có tính tổng hợp bao quát không thực hiện trên một khoảng đất trống mà trên cơ sở san định tất cả các văn bản được các đời vua trước ban hành, thu hút những quy định, điều luật, có khi cả từng chương, mục vào dự án luật mới. Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của hoạt động pháp điển hoá.
Có lẽ, đây chính là điểm cơ bản để các ý kiến vẫn còn khác nhau khi đề cập đến niên đại của Quốc triều hình luật vì có nhiều băn khoăn rằng, không thể nói đến việc Quốc triều hình luật được ban hành trong triều vua Lê Thánh Tông trị vì, nhất là ở thời kỳ nhà vua lấy niên hiệu Hồng Đức (1460 – 1497) và như Vũ Văn Mẫu khẳng định: “và phần chắc chắn là vào những năm cuối cùng của niên hiệu Hồng Đức”[26] chỉ với một lý do đơn giản: xét theo nội dung của nhiều quy định của Quốc triều hình luật mà Vũ Thị Nga đã có công chọn lọc[27] thì xuất xứ là từ những văn bản pháp luật của đời vua trước - Lê Thái Tổ và trong cả đời vua sau - Thái Tông, Nhân Tông.
Đây là một sự hiểu lầm lớn. Bộ luật dân sự đầu tiên của nước ta - Bộ luật Dân sự năm 1995 - không phải là sản phẩm chỉ của Quốc hội khóa IX mà nó là kết quả của cả quá trình “quy định, tham chiếu” các văn bản pháp luật của 8 khoá Quốc hội trước đó, từ khoá I đến khoá VIII. Nhưng không vì thế mà không định được niên đại của Bộ luật Dân sự đầu tiên vì Bộ luật được ban hành tháng 10/1995 là Bộ luật Dân sự năm 1995, ít ra để phân biệt với Bộ luật Dân sự được Quốc hội khoá XI thông qua năm 2005 thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995.
Trở lại với Bộ luật nhà Lê. Không những trên thực tế và hầu hết các ý kiến dù có khác nhau về niên đại của Bộ luật thì cũng đều thống nhất trong nhận định rằng Bộ luật được nhiều đời vua bằng hoạt động lập pháp của mình mà sáng tạo nên. Nhưng đó chỉ là cách nói không chính thức vì với tên gọi” Quốc triều hình luật” với tư cách là một văn bản pháp luật hoàn chỉnh thì chỉ được ban hành vào một đời vua. Đó là đời vua nào, xét một cách khách quan, có thể có căn cứ để khẳng định danh tính của vị vua đó không?
Tên gọi “Luật Hồng Đức” hoặc Bộ luật Hồng Đức đi vào sử sách đến nay, ít nhất đã vài ba trăm năm và không phải mãi đến thời cận, hiện đại mới được đặt ra. Cho đến nay, biết được tên gọi Bộ luật Hồng Đức với tư cách Bộ luật nhà Lê, tên gọi thay thế cho Quốc triều hình luật là nhờ ở Phan Huy Chú trong “Hình luật chí” thuộc Lịch triều hiến chương loại chí và cả trong “Văn tịch chí” của Bộ bách khoa này. Quyển XXXIII nói về “Đại cương việc sửa định luật lệ qua các đời Lý, Trần, Lê” nhưng về pháp luật đời Lý, đời Trần chỉ dành 3-4 dòng để nói, tuy cũng có ý tích cực, nhưng nhận xét chung rằng, pháp luật đời Lý, đời Trần “đều chưa gọi là phép hay được”[28] để chuyển qua nói đến luật nhà Lê. Đến khi nhà Lê dựng nghiệp, mới sửa định lại một nhận định đánh giá có tính chất chung khái quát về Luật nhà Lê để rồi đi ngay vào nói đến pháp luật đời Hồng Đức. “Hình luật đời Hồng Đức tham dụng các đời Tuỳ, Đường, xử trí có những điều nhất định, nặng nhẹ có những mức các đời tuân theo dùng làm phép sẵn, dù các điều mục lặt vặt có thêm bớt, nhưng đại cương chế độ bao giờ cũng đều theo đó, thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân. Nay thử khảo xem, hình pháp thì nặng nhẹ có 5 bậc, luật văn thì có hơn 700 điều”[29].
Dõi theo các đánh giá, nhận định về luật pháp nhà Lê, có thể dễ dàng nhận ra rằng Phan Huy Chú đang trực tiếp bàn đến Quốc triều hình luật, nhưng họ Phan không theo cách gọi đó mà nói rất cụ thể: Hình luật đời Hồng Đức, cũng tức là Luật Hồng Đức. Hơn nữa, đi vào nội dung đoạn cuối phần mở đầu này, sẽ thấy Phan Huy Chú dành “Hình luật chí” của mình để trực tiếp xem xét, khảo lược Luật Hồng Đức và được trình bày trong 5 quyển còn lại, từ quyển XXXIV đến quyển XXXVIII.
Phan Huy Chú sinh năm 1782, vào những năm cuối triều Lê. Khi ông lớn lên, nhà Lê không còn. Nhưng một triều đại tồn tại 360 năm với những công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và những triều vua dẫn dắt đất nước đến những năm thịnh trị, nhất là gần 40 năm trị vì của đời vua Lê Thánh Tông, chắc chắn thời đại đó đã để lại trong nhận thức, tâm lý xã hội với những dấu ấn sâu đậm, nhất là về mặt tinh thần, trong đó có đời sống pháp luật và một người có hiểu biết uyên bác sâu rộng về mọi mặt đời sống xã hội để viết nên Bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam[30]. Lịch triều hiến chương loại chí, trong đó có Hình luật chí có những nhận định và cả những thông tin về Bộ luật nhà Lê mà Phan Huy Chú gọi Hình luật đời Hồng Đức là đáng tin cậy.
Cùng thời với Phan Huy Chú, ông vua đầu tiên của triều Nguyễn - Gia Long nhận thức ra vai trò, ý nghĩa của pháp luật theo cách hiểu riêng, đã lệnh cho đình thần biên soạn một bộ luật với sự chỉ đạo: giở xem hình luật của các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều đại thành lập từ Lý, Trần, Lê đều có pháp chế riêng cho mỗi triều đại, mà đầy đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Truyền thống pháp điển hóa qua các triều đại phong kiến việt nam.doc