Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng nhất so với các lĩnh vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng bảo hiểm nước ngoài chiếm thị phần đáng kể. Chẳng hạn, theo số liệu báo cáo của WTO, tổng số phí bảo hiểm y tế và nhân thọ của các hãng nước ngoài chiếm 27%. Tỷ lệ này trong hoạt động bảo hiểm thương tật và bảo hiểm tài sản là 65%. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 196 công ty bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thương tật được thành lập theo luật liên bang thì 122 công ty là chi nhánh của các hãng nước ngoài.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tự do hóa tài chính - Kinh nghiệm của Trung Quốc, Canada và bài học đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác nước thi hành chính sách này trong khoảng thời gian trước đây. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy, nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hoá tài chính. Trớ trêu thay, nhận định này dường như được minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở Argentina, Brazil, Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994 - 1995 và Thailand năm 1997 .Những cuộc khủng hoảng như vậy đã làm cho chính phủ của các nước Đông Nam á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hoá tài khoản vốn.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường tài chính, bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính - ngân hàng . Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thẻ chế và các chính sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ, mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà nghiên cứu khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng trên thế giới. Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại; tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để sẵn sàng tiến hành mở cửa, và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách tài chính.
Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách, chứ không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hoá tài chính.
Thứ hai: tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu, sự thâm nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài có thể đưa đến những lợi ích đáng kể (như đã đề cập ở trên). Hơn nữa, những mặt trái của việc mở cửa thị trường tài chính có thể được khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa được cải thiện đáng kể trước khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó được trợ giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa hợp lý . Nói cách khác, việc có tận dụng được những lợi ích tiềm năng đó với một chi phí thấp nhất hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối cải tổ của chính sách các nước theo đuổi chính sách mở cửa đó.
Trên thực tế, có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của tổ chức tài chính nước ngoài làm phương hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài chính của một nước. "Sự có mặt của các tổ chức tài chính nước ngoài thực chất lại làm tăng thêm sự đa năng của hệ thống tài chính, và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn nữa, sự hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ giá và chính sách di chuyển vốn của nước chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt hay không của các tổ chức tài chính nước ngoài" (Dobson & Jacquet, 1998).
II. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Canada trong việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính
Năm 2000, một nhà nghiên cứu (Yang Qian) đã phân tích mức độ cam kết mở cửa thị trường của các nước thành viên WTO trong khuôn khổ hiệp định GATT. Một trong những kết luận đáng chú ý được rút ra là: Mức độ cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính nhìn chung không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên. Một số nước phát triển đưa ra những cam kết không được cởi mở lắm trong khi đó có những nước đang phát triển hoặc kém phát triển vẫn cam kết mở cửa thị trường rộng rãi hơn. Quyết sách để đưa ra mức độ mở cửa thị trường dường như phụ thuộc nhiều hơn vào những lợi ích tiềm năng có thể mang lại và khả năng cạnh tranh của hệ thống dịch vụ tài chính nội địa. Hay nói đúng hơn là nó phụ thuộc vào tính hiệu quả và những thành tựu đã đạt được của công cuộc cải cách hệ thống tài chính ngân hàng của một nước thành viên theo hướng hội nhập Điều đó có nghĩa là sẽ không có một công thức chung chuẩn xác nào áp dụng cho tất cả các nước khi tiến hành mở cửa kinh tế. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định, việc tham khảo kinh nghiệm và những bài học thực tế về việc mở cửa thị trường ở một số nước là cần thiết cho những nước đi sau.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979. Tuy nhiên, trong 5 năm đầu tiên của thời kỳ mở cửa, công cuộc cải cách dường như chưa chạm đến hệ thống tài chính ngân hàng. Dấu hiệu cải cách trong hệ thống tài chính thực sự mới xuất hiện vào năm 1984 khi hệ thống ngân hàng tách thành hai cấp: ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc) và Ngân hàng thương mại. Kể từ đó mới xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân hàng và ở một mức độ thận trọng, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và hoạt động ở Trung Quốc.
Nhìn chung cho đến nay, hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn bị chính phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động còn rất hạn chế.Những đặc điểm chính của thị trường dịch vụ tài chính của Trung Quốc như sau:
Hệ thống ngân hàng:
Bốn ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước kiểm soát trên 80% thị phần và thực hiện việc phân phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của trung ương. Những ngân hàng này giữ một phần lớn các khoản tiền gửi nằm ngoài kênh gửi tiền chính thức nhằm mục đích đầu cơ. Các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho vay chính thức. Tỷ lệ đọng vốn, không có khả năng thanh toán tại các doanh nghiệp Nhà nước lớn.
Các ngân hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt. Chính phủ Trung Quốc không cho phép các ngân hàng đầu tư nước ngoài mở chi nhánh.Ngân hàng nước ngoài có thể hoạt động dưới dạng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép và phải gửi 30% vốn tối thiểu vào Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.Họat động giao dịch của ngân hàng nước ngoài chủ yếu hạn chế trong khuôn khổ các ngoại tệ mạnh (gần đây có cấp phép cho một số ít ngân hàng nước ngoài được thực hiện giao dịch bằng đồng nhân dân tệ).Ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện các hoạt động dịch vụ bán buôn (wholesale banking). Trước khi mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài phải có ít nhất 3 năm hoạt động dưới dạng văn phòng đại diện và phải có số vốn ít nhất 100 triệu nhân dân tệ (NDT).
Hiện tại ở Trung Quốc có vào khoảng 540 văn phòng đại diện, 130 chi nhánh, 6 liên doanh và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ có 9 ngân hàng được phép kinh doanh bằng NDT và hoạt động kinh doanh dịch vụ cũng chỉ được phép thực hiện tại Thượng Hải và Quảng Châu. Trong tương lai những hạn chế của các ngân hàng nước ngoài có thể được nới lỏng cả về mặt địa lý, đối tượng phục vụ và lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, việc nới lỏng đó ơ rmức độ nào và với những điều kiện gì còn tuỳ thuộc vào sự đàm phán trên cơ sở lợi ích.Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rõ ràng Trung Quốc sẽ không hy sinh những lợi ích căn bản của mình để theo đuổi mục tiêu thành viên WTO và coi sự ổn định của mình là mục đích lớn nhất khi tham gia hội nhập.
Thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm Nhà nước. Nhà nước quyết định tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm. Đa số tiền bảo hiểm thu được được gửi tại tài khoản có tính lãi.
Công ty bảo hiểm nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ phải chờ đợi trong khoảng thời gian 3 năm thẩm định. Sở hữu vốn nước ngoài trong các công ty liên doanh chỉ giới hạn đến 49%. Cho đến nay mới chỉ có khoảng 3 giấy phép được cấp cho các công ty bảo hiểm nước ngoài. Việc hồi hương vốn bị hạn chế nghiêm ngặt. Các hãng bảo hiểm nước ngoài bị hạn chế trong việc cạnh tranh với các công ty bảo hiểm thương mại của Nhà nước. Chiính phủ Trung Quốc cam kết rằng khi trở thành thành viên WTO, Trung Quốc sẽ loại bỏ những hạn chế về địa lý và định lượng trong khoảng thời gian 5 năm. Bên cạnh đó, việc cấp phép đầu tư sẽ chỉ dựa trên cơ sở các tiêu chí thận trọng theo thông lệ quốc tế. Những hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn đối với các doanh nghiệp liên doanh cũng sẽ bị loại bỏ.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc chưa phát triển.Thị trường trái phiếu rất mỏng.Thị trường trái phiếu phi chính phủ không đáng kể. Trung Quốc chưa có Luật chứng khoán quốc gia. Chính phủ kiểm soát giao dịch chứng khoán của các công ty, doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Chỉ có khoảng 1/3 số cổ phiếu được giao dịch Quỹ hỗ tương không được phép thành lập.
Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không được phép thành lập chi nhánh hoặc công ty con, mà chỉ được phép thành lập dưới dạng liên doanh. Sở hữu vốn nước ngoài được phép đến 85%. Các văn phòng đại diện không được phép thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán của các công ty có vốn nước ngoài chỉ được phép đối với loại chứng khoán có mệnh giá bằng ngoại tệ (Bshare). Không được phép thực hiện các giao dịch phái sinh (Options...) Việc hồi hương lợi nhuận phải được chính phủ phê duyệt.
Như vậy, có thể thấy rằng việc cải cách kinh tế theo hướng mở cửa tuy đã được thực hiện trên hai thập kỷ, song Trung Quốc vẫn tỏ ra hết sức dè dặt trong việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính. Sự cho phép thâm nhập của một số tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực này dường như chỉ có tính chất thử nghiệm và chỉ giới hạn trong một số khu vực địa lý nhất định với nhiều điều kiện ngặt nghèo.Thị trường dịch vụ tài chính vẫn gần như được thống soái tuyệt đối bởi các tổ chức tài chính nội địa và chủ yếu là khu vực Nhà nước. Yếu tố cạnh tranh trong các hoạt động dịch vụ tài chính chưa phát triển thực sự và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân chính khiến hệ thống tài chính của Trung Quốc vẫn còn mang nặng dấu ấn "kế hoạch hoá" với hiệu quả hoạt động thấp và khả năng cạnh tranh kém -xét trên bình diện quốc tế. Với những đặc điểm đó, Trung Quốc cần có thời gian và những cải cách mạnh mẽ hơn, trước khi thực hiện việc tự do hoá theo những cam kết khi gia nhập WTO.
2. Kinh nghiệm của Canada
Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới (là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của OECD, GATT và gần đây là NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không những phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Canada, mà còn có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997, khu vực dịch vụ tài chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao động của toàn bộ nền kinh tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động dịch vụ tài chính ở Canada mang tính quốc tế hoá cao, nhiều tổ chức, công ty nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và ngược lại, nhiều tổ chức, công ty của Canada thực hiện các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Hoam Kỳ là đối tác kinh doanh lớn nhất chiếm tới hơn 50% giá trị dịch vụ kể cả nhập khẩu và xuất khẩu. Tuy mức độ mở cửa thị trường ngày càng trở nên thông thoáng trog thời gian gần đây (đặc biệt kể từ khi ký kết hiệp định chung về thương mại dịch vụ nói chung - GATT - và hiệp định về dịch vụ tài chính nói riêng - FSA), song việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở Canada cũng không có nghĩa là tự do hoá hoàn toàn.
Hệ thống ngân hàng
Trước khi tham gia ký kết hiệp định về thương mại dịch vụ tài chính giữa các nước thành viên WTO (năm 1997), cả một thời kỳ dài Canada áp dụng luật 10/25 trong lĩnh vực ngân hàng. Luật này quy định cá nhân (tổ chức) nước ngoài không được phép sở hữu quá 10% (25%) bất kỳ loại cổ phiếu nào của một ngân hàng nhất định được thành lập theo một điều khoản riêng (Schedule I). Bên cạnh đó, việc mở chi nhán hoặc văn phòng đại diện trực tiếp từ các ngân hàng nước ngoài là điều không thể. Các ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động tại Canada phải thành lập dưới hình thức công ty con hoạt động bằng vốn độc lập của chính công ty con đó theo một điều khoản riêng (Shcedule II) và không được tham gia vào các hoạt động dịch vụ bán lẻ. Những hạn chế này là những trở ngại đáng kể đối với sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, nhưng đồng thời lại được coi là những biện pháp an toàn chon sự hoạt động của các ngân hàng nội địa tránh được sự cạnh tranh và đảm bảo tính chủ quyền điều hành của chính phủ trong một chừng mực nhất định.
Các ngân hàng được thành lập theo Schedule I đều là những ngân hàng lớn có mạng lưới toàn quốc với hơn 8000 chi nhánh, nắm giữ trên 90% tài snr của toàn bộ ngành ngân hàng và chủ yếu do người Canada sở hữu. Những công ty con của các ngân hàng nước ngoài được thành lập theo Schedule II chỉ chiếm một thị phần nhỏ và chuyên biệt trong một số lĩnh vực như dịch vụ đầu tư, dịch vụ vay trả, thanh toán đối với các doanh nghiệp kinh doanh.
Sau hiệp định FSA, một số hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng nước ngoài đã được loại bỏ. Chẳng hạn luật sở hữu không quá 10% cổ phần nay được áp dụng chung cho cả cá nhân trong nước và nước ngoài, luật sở hữu không quá 25% cổ phần (đối với tổ chức hoặc nhóm cá nhân) được loại bỏ, các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh trực tiếp tại Canada... Tuy nhiên một số hạn chế cần thiết vẫn được giữ nguyên. Chẳng hạn : chi nhánh của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng cho vay hoặc dịch vụ) không được phép thực hiện các hoạt động thuộc về chức năng chuyên biệt của các công ty tài chính được quy định trong luật ngân hàng. Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện chức năng dịch vụ chỉ được phép nhận những khoản tiền gửi dưới 150.000 đô la Canada.... Một số bang còn đòi hỏi đa số thành viên của hội đồng quản trị phải là cư dân Canada hoặc quy định người nước ngoài có thể không được hưởng quyền bầu cử khi họ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng Canada trong một số trường hợp nhất định.
Thị trường bảo hiểm
Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng nhất so với các lĩnh vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng bảo hiểm nước ngoài chiếm thị phần đáng kể. Chẳng hạn, theo số liệu báo cáo của WTO, tổng số phí bảo hiểm y tế và nhân thọ của các hãng nước ngoài chiếm 27%. Tỷ lệ này trong hoạt động bảo hiểm thương tật và bảo hiểm tài sản là 65%. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 196 công ty bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thương tật được thành lập theo luật liên bang thì 122 công ty là chi nhánh của các hãng nước ngoài.
Mặc dù việc mở cửa thị trường bảo hiểm đã ở mức cao song vẫn có những hạn định ràng buộc nhất định khi cam kết tham gia hiệp định FSA. Những ràng buộc này chủ yếu là những quy định về hình thức cung ứng dịch vụ, quyền sở hữu vốn hoặc quyền điều hành. Chẳng hạn, Canada đòi hỏi tất cả các dịch vụ bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hình thức hiện diện thương mại (Commercial presence). Một số bang như (Quebec) quy định người không phải là cư dân Canada không được phép sở hữu (gián tiếp hay trực tiếp) quá 30% cổ phiếu có quyền bầu cử nếu không có sự chấp thuận của cấp bộ trưởng (Ministerial Approval). Một số băng khác không cấp giấy phép hoạt động đại lý bảo hiểm cho những người không phải là cư dân thuộc bang đó, hoặc một khoản thuế đặc biệt sẽ được áp dụng đối với khoản hoa hồng bảo hiểm thuần trả cho người không phải là đối tượng cư trú ở Canada. Quebec còn yêu cầu ba phần tư thành viên của hội đồng quản trị phải là công dân Canada và phần lớn phải định cư tại Quebec...
Thị trường chứng khoán
Canada có lẽ là nước duy nhất trong số những nước phát triển duy trì sự hoạt động của thị trường chứng khoán trên cơ sở điều luật và quản lý của các bang. Chính phủ liên bang không tham gia điều chỉnh hoặc ban hành điều luật hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy mức độ tự do hoá hoàn toàn phụ thuộc vào quy định riêng của từng bang. Tuy nhiên sự ràng buộc nói chung của đa số các bang thường là: cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, người mua bán chứng khoán phải đăng ký để thực hiện giao dịch thông qua các nhà môi giới, ít nhất một giám đốc hoặc một cán bộ chủ chốt của một hãng kinh doanh chứng khoán phải là cư dân của Canada trong thời hạn ít nhất một năm mới đủ điều kiện cho phép thành lập.
Tóm lại: Việc tự do hoá tài chính ở Canada đã có lịch sử lâu dài và được coi là một trong những yếu tố quan trọng làm cho hệ thống dịch vụ tài chính của Canada có tính cạnh tranh cao Canada không có trở ngại gì đáng kể trong việc thực hiện những cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính trong khuôn khổ FSA của WTO. Ngược lại, việc tham gia FSA sẽ là cơ hội lớn cho các ngành dịch vụ tài chính của Canada có điều kiện mở rộng các hoạt động đó ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy vậy, vẫn có thể thấy rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng vẫn còn tương đối thận trọng (so với vị thế của một nước phát triển và so với các hoạt động dịch vụ khác). Những hạn chế được quan tâm nhất đối với việc mở cửa thị trường là Nhà nước hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn, hình thức cung cấp dịch vụ, và tính chất cư trú của những người nắm giữ quyền quyết định đối với các tổ chức tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Canada. Tất cả những hạn chế về mặt đối xử quốc gia và quốc tế nêu trên được coi là cần thiết nhằm đảm bảo một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả, duy trì sự khống chế của chính phủ đối với toàn bộ hệ thống tài chính và do đó đảm bảo sự ổn định bền vững của nền kinh tế Canada.
III. Những kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc mở cửa thị trường tài chính
1. Một số đặc điểm cơ bản về thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam và mức độ mở cửa đối với các nhà kinh doanh nước ngoài
Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc mở cửa bắt đầu từ năm 1986. Xu thế này ngày càng được khẳng định bằng một loạt các mối quan hệ liên kết kinh tế được thiết lập vào những năm sau đó như tham gia ASEAN (1995), APEC (1998), ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2000)... Song song với những cải cách kinh tế, hệ thống tài chính cũng có những cải tổ văn bản theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và mở cửa từng bước.
Hệ thống ngân hàng của nước ta thực sự có những thay đổi căn bản vào những năm đầu của thập kỷ 90 khi được tách làm 2 cấp: ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại với hai chức năng riêng biệt. Sự cải tổ này đã đem đến những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực làm cho hệ thống ngân hàng ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường hơn. Tuy vậy, nhìn một cách khái quát, hệ thống ngân hàng ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc cải cách và vẫn có thể coi là chưa phát triển. Một số hạn chế chủ yếu là:
+ Non trẻ trong kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp
+ Hệ thống các văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh
+ Thiếu phương tiện và nhân viên lành nghề
+ Hạn chế về công cụ thanh toán, chi trả
+ Tỷ lệ cho vay không có khả năng thu hồi vốn lớn
+ Thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra có hiệu quả
Được coi là một phần của công cuộc cải cách, Việt Nam cũng đã cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động. Một ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động tại Việt Nam có thể thành lập dưới 3 dạng: văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nếu mở văn phòng đại diện thì ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện các hoạt động vì mục đích lợi nhuận như cho vay, nhận tiền gửi, mở thư tín dụng... Hiện có khoảng trên dưới 50 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam (Asean Year Book, 1999).
Nếu thành lập chi nhánh hoặc ngân hàng liên doanh thì có thể thực hiện một số các hoạt động thông thường của nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng (cả nội và ngoại tệ) như: cho vay, chiết khấu, thanh toán... hoặc các hoạt động khác được ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép.Hiện đã có 4 ngân hàng liên doanh và khoảng 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Mặc dù vậy, thị phần hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn nhỏ. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chiếm thị phần lớn nhất (trên 80%) trong việc huy động tiền gửi và cho vay.
Thị trường bảo hiểm của Việt Nam có phần rộng mở hơn đối với hoạt động của các công ty bảo hểim nước ngoài. Chính sách mở cửa được thực hiện bắt đầu từ năm 1993 khi chính phủ ban hành chỉ thị 100/CP cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài được phép đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức: liên doanh, mở chi nhánh hoặc 100% sở hữu vốn nước ngoài. Hiện giờ đã có 16 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam trong đó có 4 công ty liên doanh và 4 công ty 100% vốn nước ngoài. Mặc dù vậy cac công ty bảo hiểm Nhà nước vẫn giữ vị trí thống soái. Năm 1999 doanh thu của các công ty bảo hiểm Nhà nước chiếm khoảng 89% tổng doanh thu ngành bảo hiểm.Tuy nhiên, doanh thu bảo hiểm của các công ty nước ngoài đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây và có tểh sẽ chiếm thị phần đáng kể trong một tương lai không xa.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mới được hình thành vào tháng 7-2000. Thực chất đây mới chỉ là thị trường ở thuở sơ khai và chưa ổn định. Tổng lượng giao dịch còn hết sức mỏng so với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, sự tham gia của các hãng nước ngoài trong lĩnh vực này hiện nay gần như không có. Hơn nữa, hệ thống luật pháp cũng như chính sách tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán cũng sẽ còn nhiều thay đổi, nên sự đầu tư của các công ty nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ quan sát thăm dò.
Tóm lại: thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam có thể coi là chưa phát triển và đang trong quá trình cải tổ, cơ cấu lại để nâng cao sức cạnh tranh và thích ứng với môi trường kinh tế, xã hội đang ngày càng thay đổi theo xu thế quốc tế hoá.theo xu thế này, Việt Nam đã dần dần mở cửa nền kinh tế nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói rằng chính sách đó đã tương đối thành công và trở thành một nhân tố mang lại sự cải thiện về tính hiệu quả, tính ổn định và tính cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính - một lĩnh vực vốn được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ và mang nặng tính hành chính bao cấp trong thời gian trước đây. Sự mở cửa thị trường của Việt Nam có thể coi là tương đối hào phóng so với một số nước đang phát triển. Điều này đặc biệt đúng nếu so sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc- một nước đang phát triển có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị khá tương đồng với Việt Nam và là nước đã có những cải cách kinh tế đi trước Việt Nam một thập kỷ. Tuy nhiên điều đó cũng không có nghĩa rằng sự mở cửa khá nhanh đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam mà ngược lại, tiến trình đó có thể đã là một động lực thúc đẩy quan trọng làm cho công cuộc cải tổ của Việt Nam nhanh đi đến đích hơn và do đó có khả năng thích ứng với nền kinh tế thế giới một cách hiệu quả hơn.Chiến lược này một lần nữa được khẳng định thông qua việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ (trong đó có những cam kết về việc mở cửa, trao đổi thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính)- một bước đi quan trọng trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.
2.Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Dựa trên những phân tích về lợi ích mà rủi ro về việc tự doa hoá tài chính, kinh nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc và Canada và thực tiễn cải cách hệ thống tài chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, một số khuyến nghị có thể rút ra là:
Thứ nhất: Việt Nam nên tiếp tục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tự do hóa tài chính - kinh nghiệm của trung quốc, canada và bài học đối với việt nam.doc