Với tưcách một phạm trù triết học phức tạp, "tựdo".mang tính chất nhiều cấp
độvà nhiều mặt. Do vậy, cần hiểu rõ thực chất, cơsởvà bản chất sâu xa của nó. Trước
hết, hãy tìm hiểu các cấp độbiểu hiện của tựdo. Trên cấp độthứnhất, cấp độhời hợt
nhất, tựdo có thêm bộc lộtừphương diện phủ định, tiêu cực của mình - nhưlà tựdo
chạy trốn, né tránh một cái gì đó, tựdo phá hủy, tựdo không tính đến những thực tế
hiện tồn. Đây là quan niệm ngây thơ, thuần phác vềtựdo. Tuy nhiên, nó có thểcó
những hệquảmang tính tàn phá dữdội nhất. Trên thực tế, tựdo nhưvậy là sựman rợ
và là chủnghĩa ngu dân, thứchủnghĩa hoàn toàn không có điểm nào chung với văn
hóa. Được áp dụng vào đời sống xã hội, nó luôn có thểsinh ra tình trạng hỗn loạn và
vô chính phủ, sau đó là chế độchuyên chếtất yếu thay thếcho tình trạng ấy. Do vậy,
S. Phrancơ đã nhận xét: " Tựdo không phải là bản nguyên phủ định, mà là bản nguyên
khẳng định. Khi phủ định quyền lực, quyền uy, sựphân cấp, sựthờcúng
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2911 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tự do và tất yếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế độ chiếm hữu nô lệ trong quá trình tồn tại và phát triển của nó
đã tước bỏ thiên chức làm người của 3/4 dân số, biến họ thành nô lệ, thành "công cụ
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
4
biết nói" và đối xử với họ như hàng hóa có thể trao đổi giữa các chủ nô. Cùng với đó,
quan niệm về "công dân" và "nô lệ" cũng được xem xét từ góc độ người tự do và người
không tự do. Nô lệ đồng nghĩa với thế giới động vật có tinh thần. Điều này giải thích vì
sao sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của Kitô giáo vào đầu Công nguyên được xem
như sự giải thoát tinh thần, như lời cảnh tỉnh về cái chết khó có thể tránh khỏi của chế
độ chiếm hữu nô lệ. Sự ra đời của Kitô giáo là một hiện tượng cách mạng trong sinh
hoạt tôn giáo; nó là tôn giáo của người nghèo, của quần chúng bị áp bức, là sự tuyên
truyền cho lối sống bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ.
Quá trình hợp pháp hóa Kitô giáo diễn ra song song với quá trình thay thế quan hệ xã
hội chủ nô - nô lệ bằng quan hệ xã hội đi dần vào quỹ đạo của xã hội phong kiến cuối
thế kỷ IV - đầu thế kỷ V. Sau khi trở thành quốc giáo, Kitô giáo đòi quyền độc tôn
trong sinh hoạt tinh thần, trở thành một vương quốc với quyền uy tối thượng. Đại diện
tiêu biểu cho triết học Kitô giáo là Ôguýtxtanh ở thời kỳ Giáo phụ và Tômát Đacanh
trong triết học kinh viện. Theo thuyết Sáng thế, con người là hình ảnh của Thiên chúa,
nên tự do cũng là món quà mà Thiên chúa ban cho con người, tự do tinh thần được coi
trọng hơn tự do thân xác. Thậm chí, ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ thì sự nô
lệ thân xác vẫn không ngăn cản ý chí tự do. Tômát Đa canh cho rằng, tự do với tư cách
một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới trần tục để vươn tới nơi
sâu thẳm. Nhưng quan niệm như thế là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện thực,
biện minh cho tự do ảo tưởng, phi hiện thực. Vào đêm trước của cách mạng Pháp
1789, G.G.Rút xô đã nói đến tình trạng phổ biến của sự mất tự do: "Người ta sinh ra tự
do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích ". Chủ nghĩa thầy tu khổ
hạnh là minh chứng rõ rệt của quan niệm "phụng sự Chúa quên thân mình" và đề cao
tự do tâm linh, vượt qua mọi cám dỗ tội lỗi trong Kitôgiáo. Phục hưng là sự kết thúc
đầy ý nghĩa lịch sử trung đại và cũng là sự chấm dứt cách hiểu theo lối Kitôgiáo về tự
do, chỉ còn giữ lại tính hình thức của nó, nghĩa là xem tự do như món quà kỳ diệu mà
Chúa ban cho con người. Song, con người tự do trước hết là tự do trong sự lựa chọn
phương thức sống và tín ngưởng. Thời đại Phục hưng là thời đại chuyển tiếp từ chế độ
phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, tính chuyển tiếp này trong tư duy được thể hiện ra ở
cuộc đấu tranh chống thần quyền và những tín điều bảo thủ, thuyết Thần là trung tâm
được thay bằng thuyết Con người là trung tâm, chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh được thay
bằng chủ nghĩa hạnh phúc, thuyết định mệnh được thay bằng thuyết tự do cá nhân. Và,
chủ nghĩa nhân văn đã mở đường cho cuộc đấu tranh thật sự chống lại cả thần quyền
lẫn thế quyền trong thời Cận đại. Quan niệm cận - hiện đại về tự do luôn gắn kết với sự
hình thành và khẳng định tư tưởng về con người cá nhân, về xã hội công dân và nhà
nước pháp quyền. Quá trình chuyển từ thời đại phong kiến Trung cổ sang Cận đại là
quá trình đánh giá lại vị trí và vai trò của con người trong xã hội, đề cao tự do như
phẩm giá cao nhất, như bản tính cố hữu, cái phú bẩm nơi con người. Người ta gọi đó là
sự hình thành một hệ biến thái mới về thế giới quan. Một mặt, thời Cận đại tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và sự thực hiện những khả năng của nó. Chủ
nghĩa cá nhân được xác lập trên cơ sở đồng nhất tự do cá nhân và tư hữu, trở thành sức
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
5
mạnh kích thích to lớn cho sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội và sự hình thành nền
dân chủ chính trị. Chính thời Cận đại với thế giới quan khoa học duy lý đã tạo ra
những điều kiện cho sự giải phóng tinh thần và sự hiện thực hóa mọi khả năng của con
người, cho quá trình con người thâm nhập vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Các hình thức
tạo dựng cuộc sống mới dựa trên cơ sở hợp lý, khoa học đem đến con người sự thuận
lợi và tiện nghi mà các thời đại trước thậm chí chưa dám nghĩ đến. Hơn nữa, sự mở
rộng vô điều kiện các giới hạn của tự do cá nhân còn mang đến cho từng cá nhân khả
năng cảm nhận về con người với tư cách chủ thể thế giới, người sáng tạo duy nhất số
phận mình. Mặt khác, sau khi giải thoát khỏi những quan hệ lỗi thời, chật hẹp, mang
tính phường hội, con người cũng đồng thời tự tin hơn trong việc xác định vị trí của
mình giữa cộng đồng và khẳng định ý nghĩa của tồn tại. Thay đổi quan niệm Trung cổ
về con người như hình ảnh của Thiên chúa, các nhà tư tưởng thời Cận đại đặt con
người vào vị trí trung tâm, biến nó thành con người tự chủ, tự quy định và đầy tham
vọng chinh phục thế giới. Nhưng, vũ trụ vốn quá mênh mông, hờ hững trước những
nhu cầu con người, nên mỗi bước tiến tới tự do, con người lại phải đặt mình trong tính
tất yếu, trong sự nhận thức quy luật. Đó là cái giá phải trả cho tự do? Hơn nữa, bất
chấp những thành quả đáng ngạc nhiên trong việc chinh phục tự nhiên và mở rộng
phạm vi thực hiện những khả năng, con người vẫn chưa học được cách điều chỉnh thế
giới mà mình tạo ra. Có vẻ như lạ lùng, song chủ nghĩa cá nhân - cái tiền đề cơ bản của
sự khẳng định tính tự chủ của từng cá thể lại chứa đựng cả những yếu tố nô dịch con
người. Cội nguồn biến thái này nằm ở khuynh hướng luận giải con người từ góc độ
quyết định luận vật chất và thực dụng - vị lợi. Theo cách tiếp cận này, tự do con người
cũng được hiểu trước hết như là sự tự do lựa chọn phương thức và nguồn khai thác
phương tiện tồn tại, tự do mua và bán. Trong xã hội Phương Tây công nghiệp hiện nay,
mối quan hệ giữa người làm công và người chủ mang tính chất công cụ và thực dụng.
Người sở hữu tư bản sử dụng người làm thuê như bất kỳ công cụ nào, như máy móc.
Về phần mình, người làm thuê cũng sử dụng người chủ sở hữu nhằm đạt được mục
đích kinh tế thực dụng, họ không quan tâm đến điều gì khác ngoài tính lợi ích tương hỗ
này. Không chỉ quan hệ thuần túy kinh tế mà cả nhiều quan hệ khác giữa người với
người cũng có những hình thức biểu hiện tương tự. Bán sức lao động của mình, con
người cũng cảm giác về mình như một thứ hàng hóa. "Tự do" như thế, theo C.Mác, là
biểu hiện của tha hóa, của sự đánh mất tính loài đặc thù trong đời sống con người.
Những năm 20 của thế kỷ XIX đã xuất hiện cách giải thích tự do theo ý chí luận, mà
đại diện tiêu biểu là A. Sôpenhauơ. Ông cho rằng, ý chí là bản nguyên sống cố hữu của
con người, ý chí sinh tồn hiện hữu khắp nơi và trở thành lý chí vũ trụ. Thế giới là ý chí
và biểu tượng của Tôi, Tôi cảm nhận thế giới qua lăng kính ý chí và biểu tượng, bởi lẽ
thế giới hiện ra không như nó vốn là như vậy, mà qua sự biểu tượng của Tôi. Ý chí của
Tôi áp đặt cho thế giới đó một ý nghĩa chủ quan; ý chí tự do và sáng tạo dẫu sao cũng
là mù quáng. Ý chí tự do đưa ta đến những miền đất mới mẻ, hoang sơ. Lý trí là kẻ
phụng sự ý chí, chứ không phải là ngược lại. Từ đó, Sôpenhauơ cho rằng, sự tồn tại
của “ thế giới cho ta ” ở một chừng mực nhất định là quá trình hiện thực hóa những
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
6
thiên hướng và tiềm năng cố hữu trong bản thân mỗi con người. Tự do ý chí sẽ không
còn ý nghĩa, nếu khả năng của con người bị giới hạn theo những khuôn mẫu của lý trí.
Chân lý duy nhất không dành chỗ cho sự tự do lựa chọn. Độc quyền, nhất nguyên, sự
thiếu vắng tự do lựa chọn tự chúng đã mâu thuẫn với bản chất con người. Chủ nghĩa
hiện sinh được xem như học thuyết triết học về sự tồn tại của con người trong thế giới
và thế giới là thế giới của chính con người. Tìm kiếm ý nghĩa của hiện sinh như là tồn
tại - ý thức, tồn tại trong âu lo, xao xuyến, nếm trải và sáng tạo, cái mà “ thế giới
không con người ” không thể có được, các nhà hiện sinh luôn nhấn mạnh tính duy nhất
của hiện sinh hay tồn tại con người, thể hiện ở chỗ con người là bản thể tự quy, tự tại
mà những cái khác không thể sánh được. G.P.Xáctơrơ đã đề cập tới sự tự do lựa chọn
thái độ sống của mỗi cá nhân, còn A.Camuy thì gắn tự do với trách nhiệm của cá nhân
đối với xã hội. Ý tưởng con người - dự phóng được Xáctơrơ xem như thông điệp của tự
do và sự tự vươn lên của con người. "Con người là một dự phóng, - Xáctơrơ viết, -
sống bằng cuộc sống riêng của mình, thay vì là một đám rêu xanh, mốc meo, hoặc một
bắp cải ôi". M. Haiđơgơ cũng như các nhà hiện sinh khác đã phê phán "trung bình
tính" và coi sự "chuẩn hóa xã hội" là cái san phẳng tính độc đáo cá nhân. Ông viết:
"Chúng ta thưởng thức và giải trí như "người ta" thưởng thức; chúng ta đọc, nhìn và
phán đoán về văn chương và nghệ thuật như "người ta " đọc, nhìn và phán đoán...
Người ta không là kẻ nào xác định, mà là tất cả, mặc dầu không phải là tổng số, quy
định cách thể hữu của thường nhật tính... Trung bình tính, san bằng, xét như là những
cách thể hữu của "người ta" cấu tạo cái mà người ta gọi là "công cộng tính". Các nhà
hiện sinh còn gắn vấn đề tự do với mối quan hệ giữa cái bản chất và cái hiện hữu.
Xáctơrơ cho rằng, cái hiện hữu của con người đi trước bản chất của nó, nhưng cách đặt
vấn đề "hiện hữu đi trước bản chất" hay "bản chất đi trước hiện hữu ” cũng đều là con
đường giả tạo của chân lý. Ý thức được cái Tôi của mình, con người đã không còn đơn
giản là một phần của tự nhiên, nó không chỉ "đứng trong" tự nhiên, mà còn vượt ra
khỏi giới hạn tự nhiên, vượt lên trên tự nhiên, con người nỗ lực buộc tự nhiên phục vụ
những nhu cầu của mình. Và, cái chính là, bản chất của con người là cái cố hữu trong
con người, chứ không phải đi sau hay đi trước sự hiện hữu của nó.
Với tư cách một phạm trù triết học phức tạp, "tự do"...mang tính chất nhiều cấp
độ và nhiều mặt. Do vậy, cần hiểu rõ thực chất, cơ sở và bản chất sâu xa của nó. Trước
hết, hãy tìm hiểu các cấp độ biểu hiện của tự do. Trên cấp độ thứ nhất, cấp độ hời hợt
nhất, tự do có thêm bộc lộ từ phương diện phủ định, tiêu cực của mình - như là tự do
chạy trốn, né tránh một cái gì đó, tự do phá hủy, tự do không tính đến những thực tế
hiện tồn. Đây là quan niệm ngây thơ, thuần phác về tự do. Tuy nhiên, nó có thể có
những hệ quả mang tính tàn phá dữ dội nhất. Trên thực tế, tự do như vậy là sự man rợ
và là chủ nghĩa ngu dân, thứ chủ nghĩa hoàn toàn không có điểm nào chung với văn
hóa. Được áp dụng vào đời sống xã hội, nó luôn có thể sinh ra tình trạng hỗn loạn và
vô chính phủ, sau đó là chế độ chuyên chế tất yếu thay thế cho tình trạng ấy. Do vậy,
S. Phrancơ đã nhận xét: " Tự do không phải là bản nguyên phủ định, mà là bản nguyên
khẳng định. Khi phủ định quyền lực, quyền uy, sự phân cấp, sự thờ cúng, tự do sẽ dẫn
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
7
từ chế độ vô chủ đến chế độ chuyên chế, tức là đến sự tự phủ định, và ngược lại, khát
vọng tự quyết đích thực chỉ có thể được đáp ứng thông qua kỷ luật bên trong : của tinh
thần, thông qua sự tôn trọng đối với những cơ sở và những giá trị đứng trên cá nhân".
Cấp độ thứ hai của tự do trực tiếp sinh ra từ ý thức về tính vô căn cứ của tự do phủ
định. Có thể xác định cấp độ này như là tự do lựa chọn có trách nhiệm. Vai trò, ý nghĩa
đích thực có nhân tính của tự do bộc lộ ra ở đây. Có thể gọi cấp độ thứ ba của tự do là
tự do hiện sinh. Đây không những là tự do lựa chọn, mà còn là tự do sáng tạo - sáng
tạo ra cái thiện và cái ác. Bản chất của nó gắn liền với một thực tế là, trong cuộc sống
của mình, con người không những lựa chọn giữa cái thiện và cái ác hiện tồn, mà còn
tạo ra các hình thức của chúng mà trước đó chưa từng tồn tại. Cuộc sống không cấu
thành một cách hoàn toàn từ những bối cảnh mang tính chuẩn mực: trong đa số tình
huống, con người không biết trước bản thân tổng số những khả năng, những phương
án cần phải hành động như thế nào; con người đòi hỏi phải sáng tạo, tự mình nghĩ ra
cách thức ứng xử. Một điều dễ hiểu là, quá trình sáng tạo ra cái thiện và cái ác luôn đòi
hỏi phải có những thể nghiệm tinh thần phức tạp. Nó gắn liền với sự tự quyết nội tâm.
N.Berđiaép cho rằng: " Tự do là sự tự quyết từ nội tâm, từ đáy lòng, và nó đối lập với
mọi sự quyết định từ bên ngoài với tư cách cái tất yếu ”.Cùng với các cấp độ của tự do,
cũng có thể tách biệt các phương diện của nó: tự do chính trị, tự do pháp lý, tự do kinh
tế và các hình thức tự do khác. Song, thiếu tự do tự quyết nội tâm thì tất cả những hình
thức ấy của tự do đều không phải là tự do thực tại. Chẳng hạn, trong xã hội có thể có tự
do pháp lý, song mọi người sẽ không sử dụng nó mà vẫn tiếp tục sống trong trạng thái
không tự do. Một cách tương tự, sự hiện diện của tự do chính trị hoàn toàn không có
nghĩa mọi cá nhân đều tự do về mặt chính trị: sẽ có những người xâm phạm đến tự do
của người khác và cũng có những người không muốn hay không biết cách sử dụng tự
do của mình. Do vậy, B.P.Vưchexlápsép đã có lý khi viết: "Tự do chính trị, tự do công
dân, tự do pháp lý không bao hàm tất cả và không biểu thị bản chất đích thực của tự
do, mà chỉ là điều kiện cho nó, chỉ là con đường để đạt tới và bảo vệ nó". Không nên
gán ép tự do từ bên ngoài, từ phía sự cưỡng chế ở bên ngoài, cũng giống như không
nên cưỡng chế con người thích cái mà nó không thích. Chính vì vậy mà tự do, xét từ
bản chất sâu xa của nó, là tự do tự quyết nội tâm bằng tinh thần nhân văn mà nhân loại
đã đúc kết qua hàng bao thế kỷ trong quá trình sáng tạo ra văn hóa làm người của
mình. Để trở thành con người như một thực thể văn hóa thì chỉ riêng nhận thức là chưa
đủ, mà còn cần phải sống, cần phải hiện sinh một cách có tính người nhờ “đồng hoá”
toàn thể sự kết tinh tinh thần nhân văn của loài người thông qua giáo dục ở gia đình, ở
nhà trường, ở xã hội. Do vậy, giáo dục ngày càng trở thành mệnh lệnh tối cao " đối với
bổn phận và quyền làm người của con người trong tương lai.
Nên hiểu như thế nào về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu?
Để có thể hiểu về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu, hay nói cách khác là hiểu
được quan điểm coi sự tồn tại của con người ở nhiều phương diện là cái quy định bản
chất của nó, cần lưu ý rằng, sự hình thành ngôn ngữ và lời nói, các yếu tố tinh thần,
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
8
các phương tiện và phương thức sống, phong tục, thói quen, tập quán, truyền thống,
các lối ứng xử ở các dân tộc khác nhau, phần lớn mang tính độc lập và thường gắn với
những đặc trưng dân tộc, tôn giáo, nhưng lại hướng tới những mục tiêu thống nhất
mang tính phổ quát, tính nhân loại. Chúng hình thành và được khẳng định một cách tự
phát, cho dù có sự lựa chọn bước đầu. Nói " tự phát " vì trước hết, chúng được hình
thành như cái " bản năng " sinh tồn, bảo tồn và phát triển con người, nhưng lại chưa
được ý thức một cách trực tiếp và có hệ thống để đem lại một diện mạo bản thể luận rõ
ràng. Khát vọng và sự bùng nổ sáng tạo là cơ sở của cuộc sống, còn cuộc sống là sự
thực hiện những khát vọng và sự bùng nổ sáng tạo ấy. Tuy nhiên, chính cuộc sống lại
đặt ra các nhu cầu, những giới hạn, những tính quy định cho hoạt động con người mà
thiếu chúng, con người sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, không thể kiểm
soát được. Hai bản nguyên - khát vọng tự do và tính tất yếu đều xuất phát từ bản chất
con người. Do vậy, nhận thức về tự do, cũng có nghĩa là nhận thức về mức độ của tự
do. Ph.Ăng ghen viết: " Tự do là sự nhận thức được cái tất yếu... Tự do của ý chí
không phải là cái gì khác hơn là cái năng lực quyết định một cách hiểu biết công việc...
Tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử ". Kinh nghiệm lịch sử chứng minh
rằng, trong bản chất con người, bên cạnh bản nguyên thiện, còn có bản nguyên ác, "
thần " và " thú ". Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong tất cả các tôn giáo, bằng cách này
hay cách khác, đều đề cập tới cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Triết lý Phật giáo báo
trước rằng nghiệp ác xuất phát từ chính con người và do vậy, từng người phải tự rèn
luyện, tu dưỡng để vượt qua ác căn, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Giải thoát tâm
linh cũng đồng nghĩa với sự nhận thức về tự do, về sự giải thoát khỏi những ràng buộc
vật chất tầm thường. Con người là một thực thể xã hội, mang những đặc tính xã hội,
tính tập thể, hướng thiện, nhiệt tình, lòng nhân ái..., nhưng thú tính vẫn có chỗ trong
con người với những mức độ khác nhau, đó là tập hợp của sự hung hãn, thói bạo dâm,
tham lam, đố kỵ, kiêu căng, thành kiến... Trong lịch sử triết học, Platôn đã hình dung
sự tương phản này bằng hình ảnh " cỗ xe linh hồn " với hai con ngựa có hai bản tính
khác nhau - ngựa trắng kéo cỗ xe vươn tới cái thiện và sự phù hợp với linh hồn Vũ trụ,
còn ngựa đen theo hướng ngược lại. Sự giằng co này chứng tỏ trong mỗi con người
luôn diễn ra sự xung đột giữa hai thế lực. Trong trường hợp đó, sự sáng suốt của lý trí
để cá nhân không ngừng " phản tỉnh ", nhìn lại chính mình, vươn lên khắc phục tội lỗi
là đòi hỏi cần thiết. Đánh giá hành vi con người cần tính đến không chỉ các yếu tố hợp
lý và lương thiện, mà cả sự không hoàn thiện của con người, bản năng phá hoại và vô
trật tự của nó. Trong trường hợp này, tự do cần được hiểu và thực hiện như ý thức về
tự do và hoạt động tự do có ý thức. Xã hội trước hết là một liên minh của các cá thể, sự
tồn tại của cá nhân không có ý nghĩa bên ngoài liên minh này. Chất lượng xã hội phụ
thuộc vào chất lượng cá nhân hợp thành nó, thể hiện ý chí cá nhân với tư cách những
chủ thể sáng tạo ra đời sống xã hội, cùng với các thiên hướng, khát vọng, định hướng
đạo đức, thẩm mỹ. Cũng như vậy, tự do cá nhân chi phối các điều kiện chính trị - xã
hội. Tự do của con người được giới hạn, một mặt, bởi các nhu cầu, lợi ích, năng lực;
mặt khác, bởi những điều kiện môi trường bên ngoài. Lẽ công bằng, một nội dung của
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
9
bình đẳng xã hội, phải được hình thành trên cơ sở hiểu biết nhu cầu và thiên hướng của
con người cụ thể, hiện thực. Hướng đến tự do, con người nhận thấy nó hoàn toàn bị chi
phối bởi những quy tắc và những giới hạn tự do của những thành viên khác trong xã
hội. Giới hạn của tự do hành động được giới hạn bởi cả bản tính tự nhiên của con
người lẫn của thế giới, tạo nên một không gian sinh tồn mang tính xã hội cho con
người, hay không gian của tự do. Tự do chân chính chỉ có ý nghĩa với điều kiện là mỗi
người thừa nhận những giới hạn của không gian này, cũng như tính tương hỗ hay chế
ước nhau của quyền lợi và nghĩa vụ. Sự bình đẳng, sự " đồng quyền " trong nhận thức
và hoạt động theo nguyên tắc ấy cũng là tất yếu khách quan của thời đại văn minh.
Không có tự do trừu tượng, tự do " tự nhiên ", chỉ có tự do thể hiện trong hoạt động
mang tính xã hội của con người. Việc đòi hỏi tự do tuyệt đối, gán cho tự do một ưu thế
tuyệt đối trước những giá trị khác, dưới những hình thức khác nhau, cũng như việc đòi
hỏi phải biện minh và sử dụng mọi phương tiện để đạt tới tự do đều là không tưởng.
Tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực của mỗi người. Ai
cũng yêu tự do, ai cũng khao khát tự do. Tự do mạnh mẽ và vĩ đại ở chỗ tìm kiếm nó
trở thành bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng khao
khát tự do, giống như sự thèm muốn bị thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước.
Chính vì thế, không một con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác
và không một dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc
kháng chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm toả. Sự mãnh
liệt của khát vọng tìm kiếm tự do là một trong những tiêu chuẩn tất yếu để đo đạc sự
lành mạnh của một dân tộc. Như đã nói ở trên, trong lịch sử phát triển của nhân loại,
Phương Tây là mảnh đất đầu tiên có tự do, ở đó khát vọng tự do của con người được
đáp ứng và chính sự gặp gỡ của con người với tự do đã tạo ra trạng thái phát triển rực
rỡ. Kết quả của quá trình phát triển lâu dài của văn minh Phương Tây là: tự do, với tư
cách như một đối tượng thơ ca, được mô tả như những thiên thần bay bên trên đời sống
tinh thần con người; và, tự do, với tư cách như một đối tượng triết học, được cụ thể
hoá thành những nguyên tắc cấu tạo ra xã hội, cấu tạo ra nhà nước. Cốt lõi của văn hoá
Phương Tây chính là những tư tưởng, quan điểm về chủ nghĩa cá nhân, ý thức nhân
quyền và thể chế dân chủ. Dựa trên tinh thần tuyệt đối của tự do cá nhân, Phương Tây
coi tự do là chất xúc tác cơ bản của đời sống, là năng lượng tạo ra đời sống con người
và lẽ tất yếu, trở thành linh hồn của mọi sự tiến bộ và phát triển. Tự do chỉ có thể nảy
nở ở vùng đất mà những nhận thức về tự do cũng như mối quan tâm dành cho tự do
được mở rộng và khơi sâu. Điều này đúng với Phương Tây, nơi các học giả bàn về tự
do một cách sôi nổi và đầy cảm hứng, trong khi ở Phương Đông thì gần như xảy ra
điều ngược lại, bởi lẽ hầu hết các học giả đều có khuynh hướng thu hẹp không gian tự
do của con người. Khoa học nhận thức ở Phương Đông chưa làm rõ được khái niệm tự
do cũng như xây dựng phạm trù tự do đúng đắn. Chính vì thế, người Phương Đông
chưa hiểu đúng bản chất của tự do, vẫn xem tự do như một cái gì đó ở bên ngoài, bên
trên cuộc sống. Trong quan niệm của họ, tự do là cái cho phép hay là cái được ban phát
từ trên xuống, như là một ân sủng của đấng tối cao trao cho con người. Những nhận
TiÓu luËn TriÕt häc – Chñ ®Ò “ Tù do vµ tÊt yÕu ”- GVHD - TS. Bïi V¨n Dòng.
Häc viªn thùc hiÖn: NguyÓn H¶i Thμnh – Líp TriÕt 1 CH17 – Chuyªn ngµnh PPGD VËt lý.
10
thức lệch lạc và mơ hồ như thế về tự do đã làm hạn chế rất nhiều năng lực phát triển
của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Hay nói cách khác, Phương Đông lạc hậu
vì chưa bao giờ xem tự do như đối tượng chính hay linh hồn của tiến trình phát triển xã
hội. Do đó, người ta nhận ra rằng, trong các cuộc cải cách, cái cần thay đổi trước tiên ở
Phương Đông là nhận thức về tự do. Và, điều quan trọng nhất mà Phương Đông cần
nhận thức là: tự do không phải là một loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ ai, bất kỳ
lực lượng nào mà nó là tài sản tự nhiên của con người. Điều này có nghĩa tự do không
phải là không gian cho phép, không một nhà nước nào có quyền ban phát tự do cho
con người. Nói cách khác, con người phải ra khỏi trạng thái nhận thức tự do như là sự
nhân nhượng của bề trên đối với kẻ dưới, tức là trạng thái thụ động đón nhận tự do.
Cần phải khẳng định tự do không phải là thứ gì đó ở bên ngoài cuộc sống, tự do thuộc
về con người, tự do gắn liền với con người với tất cả hình hài cụ thể của nó. Tự do là
nhà ở, tự do là đường đi, tự do là bãi cỏ rộng mênh mông, là thức ăn, là nước uống...
Tự do là tất cả những gì liên quan đến đời sống con người kể cả vật chất lẫn tinh thần.
Tự do muôn hình muôn vẻ và thiêng liêng đến mức không có định kiến nào trói buộc
được nó, hễ bị kìm kẹp bởi định kiến là con người mất tự do. Tự do là một không gian
dành cho mỗi cá nhân, tuỳ thuộc vào khả năng của mình, mỗi cá nhân đều có quyền
làm chủ không gian ấy, khai thác nó và hơn nữa là mở rộng nó.
Tự do là một quan hệ. Đối lập với tự do là lệ thuộc, là nô lệ. Sự ra đời của các
thiết chế nhà nước trong xã hội có giai cấp với những thể chế chính trị khác nhau
dường như đã hạn chế tự do của con người. Vì vậy, khởi điểm của hành trình nhận
thức tự do của nhân loại là tự do trong các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, để khẳng định
quyền tự do chân chính của con người như một tất yếu, nhận thức của nhân loại đã
phải viện dẫn đến tự do trong quan hệ với tự nhiên và với chính bản thân mình. Ở
Trung Quốc, Lão Tử đề xướng thuyết vô vi, chủ trương không làm gì trái với tự nhiên,
trái với đại đạo của trời đất. Tự nhiên ở đây được hiểu là những quy luật vận hành tất
yếu của vũ trụ. Không làm trái với tự nhiên, hơn thế nữa, con người phải hoà mình vào
tự nhiên. Vì vậy, " vô vi ” biểu hiện như một lối sống nhiều hơn là nhận thức triết học
về tự do. Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử phản đối cách cai trị cưỡng chế, áp đặt
đương thời: " Dân sở dĩ đói là vì trên thu thuế nhiều, dân sở dĩ khó trị là vì trên theo lối
hữu vi". Khổng Tử cũng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_do_va_tat_yeu_811.pdf