MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO 3
1. Bản chất của tư duy biện chứng trong triết học phật giáo 3
2. Thuyết vô ngã-vô thường 3
3. Luật nhân quả 5
4. Nhân sinh quan trong triết học phật giáo 7
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT NAM 9
1 Ảnh hưởng của tư duy biện chứng trong phật giáo đến tư duy người Việt Nam 9
2. Biểu hiện cụ thể của những ảnh hưởng này trong cuộc sống của người Việt Nam 10
2.1. Quan hệ giữa người với người 10
2.1.1. Đạo đức 10
2.1.2. Chính trị 11
2.1.3. Văn hóa 12
2.2. Quan hệ giữa người với thế giới xung quanh 14
2.2.1. Cải tạo môi trường phục vụ cho cuộc sống của mình 14
2.2.2. Đấu tranh giải phóng dân tộc 15
2.2.3. Hội nhập kinh tế thế giới 16
KẾT LUẬN 18
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12387 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư duy biện chứng trong triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới tư duy của người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vật luôn luôn thay đổi và không bao giờ giống nhau, vì hai sự kiện hoạt động tiếp nối nhau. Trong Triết học Phật giáo gọi là “sanh diệt vô thường”, nguyên lý này được giải thích theo quan điểm Phật giáo là bất cứ sự thay đổi nào của vạn vật đều sanh diệt không ngừng trong từng khoảnh khắc.
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có. Nhưng không hẳn là như vậy mà lắm lúc chúng ta quên đi sự vô thường và biến hoại của vật chất trong từng giây phút đi qua. Ta có thể tận mắt nhìn một đám mây đang bay ngang trước mắt, nhưng rồi nó cũng phải biến tướng dời đi nơi khác mà không còn nguyên vẹn như ban đầu chúng ta đang có cảm thọ là đám mây kia vẫn ở vị trí cũ.
Tóm lại: Ngay từ đầu triết học phật giáo đã giả quyết các vấn đề một cách biện chứng và duy vật. TH phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các đấng tối cao, của thượng đế và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào.Và có thể nói qua thuyết vô ngã vô thường người ta nhận ra thế giới quan trong triết học phật giáo hay nói cách khác là cách nhìn nhận thế giới của triết học phật giáo. Đó là một thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng và triết học phật giáo đã nhìn nhận thế giới trong sự hình thành, tồn tại, phát triển và biến mất. Hay nói một cách khác triết học phật giáo đã nhìn nhận sự tồn tại thế giới trong sự phức tạp của nó.
3. Luật nhân quả
Luật nhân quả được hiểu một cách thông thường như sau: cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới … Cứ thế nối nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hóa hóa mãi. Tất cả vạn vật đều tuân theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn(vĩnh viễn).
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng, thành, trụ, hoại, diệt( sinh thành, biến đổi, tồn tại và diệt vong). Qúa trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự vật hiện tượng. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô thường của vạn vật đã xây dựng nên thuyết nhân duyên. Trong thuyết nhân duyên có ba khái niệm cơ bản là Nhân, Quả, Duyên:
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó được gọi là Nhân
- Cái gì tập lại từ Nhân gọi là Quả.
- Duyên là điều kiện, mối liên hệ giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của Phật pháp.
Luật nhân quả có thể hiểu cụ thể như sau:
- Nhân Quả là một định luật mới ngó thì rất giản dị, nhưng nếu càng đi sâu vào sự vật thì càng thấy phức tạp, khó khăn! Trong vũ trụ mọi sự vật không phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết, xoắn lấy nhau, ảnh hưởng nhau, tương phản nhau, tiếp thừa nhau, chằng chịt giữa sự vật, hành giả gọi nó là "Duyên" nên mới có từ “Nhân Duyên”.
Ví dụ: hạt lúa cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những nhân tố đó chính là duyên. Mối quan hệ Nhân – Quả là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, cái đơn giản hay phức tạp.Ví như một hạt cát nhỏ được tạo thành từ mối quan hệ nhân quả trong toàn vũ trụ, cả vũ trụ hòa hợp tạo nên nó.
- Thuần nhân không sinh ra quả. Hạt lúa không thành cây, nếu không đem gieọ Hạt lúa không thành cơm, nếu không đem xay giả và nấu chín. Ở khía cạnh khác thì lại khác. Thí dụ, muốn có quả cam thì phải có nhân (hạt) cam. Tức nhân nào thì quả nấỵ Học đàn thì biết đàn. Nghĩa là nhân quả phải đồng loại nhau. Do đó, nhân chuyển đổi thì quả cũng chuyển đổi theọ Thế nên dựa vào luật nhân quả ông bà ta khuyên ngắn gọn "làm lành hưởng phước, làn ác mang họa", với ước muốn con cháu ăn hiền ở lành.
- Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Chính trong Nhân hiện tại đã hàm chứa cái Quả vị lai; cũng chính trong Quả hiện tại đã có hình bóng của Nhân quá khứ. Một sự vật ta gọi là Nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái Quả. Một vật đều có Nhân và Quả; đối với quá khứ nó là Quả, nhưng đối với tương lai nó là Nhân. Nhân và Quả đấp đổi nhau, tiếp nối nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà trong một hoàn cảnh nào, người ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một người. - Sự biến chuyển từ Nhân đến Quả có khi mau, khi chậm, chứ không phải bao giờ diễn tiến trong một thời gian đồng đều. Có những Nhân và Quả xảy ra kế tiếp nhau, Nhân vừa phát thì Quả xuất hiện, như khi ta vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì âm thanh phát ra (quả). Nhiều khi Nhân gây rồi, nhưng phải đợi một thời gian mới hình thành. Cái thời gian ấy phức tạp vô chừng. Như gieo hạt lúa phải cần thời gian vài ba tháng. Có khi từ Nhân đến Quả hàng chục năm, như từ khi đi học (nhân) đến lúc thành tài (quả). Có khi từ Nhân đến Quả phải đợi một vài trăm năm hay hơn nữạ Điều nầy vượt qua mức sự kiểm soát của một kiếp người nên có kẻ không tin luật Nhân Quả
Nhân Quả nơi con người: Nói đến con người thì có nhiều phương diện nào vật chất, như con người do cha mẹ sanh ra (nhân) rồi hoàn cảnh cuộc sống (duyên). Về phương diện tinh thần thì có tư tưởng tốt và xấu. Nói một cách tổng quát dù vật chất hay tinh thần, hễ gieo nhân nào thì gặt quả nấỵ
Về thời gian thì Nhân trước, Quả sau. Nhân Quả tồn tại trong diễn biến trước sau nối nhau, trong sự hòa hợp liên quan đến nhau. Có nguyên nhân thì tất có kết quả, có kết quả thì tất có nguyên nhân. Mọi sự vật đều biến đổi sinh diệt theo phép Nhân quả. Luật nhân quả là lý luận cơ bản mà triết học phật giáo dùng để giải thích mối quan hệ tương hỗ của mọi sự vật.
4. Nhân sinh quan trong triết học phật giáo
Quan điểm về triết lý nhân sinh, ở phương Đông đã kết luận bản tính tự nhiên của con người. Ở phương Tây thì kết luận con người được cấu tạo từ vật chất. Còn theo triết học Mác-Lênin, quan niệm về con người: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội; con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Đạo Phật quan niệm về triết lý nhân sinh thể hiện trong thuyết “thập nhị nhân duyên”. Trong mười hai nhân duyên thì vô minh căn bản. Từ nhân quá khứ sang quả hiện tại lại làm lại nhân cho quả tương lai. Cũng theo phật giáo nguồn gốc vũ trụ và con người không do lực lượng siêu nhân sáng tạo ra mà cho rằng thế giới là vô cùng vô tận.
Trong thập nhị nhân duyên ta chú trọng đến quy luật “sinh lão bệnh tử”, mà ở đó con người tuân theo quy luật này để hình thành, tồn tại, phát triển và biến mất:
- Sinh: hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc vật. Do sinh mà có tử, ấy là sinh làm quả cho hữu và làm nhân cho tử.
- Lão tử: là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng chết- sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang nghiệp rơi vào vòng luân hồi khổ não.
Sinh lão bệnh tử là bốn nỗi khổ mà ai cũng phải trải qua theo như phật giáo, nó xuất phát từ một bài thơ của đức phật:
Trên trời dưới đất
Chỉ là tôn nhất
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Sinh lão bệnh tử là quy luật lẽ thường của tự nhiên, cái chết không loại trừ bất cứ ai. Trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt: sự sống và cái chết. Khi con người sinh ra và lớn lên cũng đồng nghĩa với việc tiến dần tới cái chết. Do vậy, nếu tất cả mọi người đều hiểu được sinh tử là quy luật tự nhiên thì họ sẽ sống tích cực hơn và ra sức đóng góp cho đời nhiều hơn.
PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
1 Ảnh hưởng của tư duy biện chứng trong phật giáo đến tư duy người Việt Nam
Hơn tất cả các học thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người,đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn chặng đó của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm chí sống lạc quan bình thản trước cái chết. Nhiều nhà sư trong Lý – Trần đã có quan niệm như thế.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng,thành, thức là những vấn đề có ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý; Từ sự vật khánh quan (Sắc), Con người cảm thụ được (Thụ), Suy nghĩ (Tưởng), Rồi đem hiện (Hành), và cuối cùng là biết (Thức). Ở đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện chứng với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi liên tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại mãi.Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy cái biến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được của cái hình thức vận động sẽ đi đến chiều hướng bi quan buông xuôi nhưng mặt khác phải thấy nhận thức được như vậy là cũng có chiều sâu, là thấy được phương diện cơ bản của sự phát triển sự vật.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân từ kết quả khác trong mỗi qua hệ khác.
Trên đây là những vấn đề mà phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt Nam góp phần làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của người Viêt Nam.
2. Biểu hiện cụ thể của những ảnh hưởng này trong cuộc sống của người Việt Nam
2.1. Quan hệ giữa người với người
2.1.1. Đạo đức
Khi quan sát thế giới bên ngoài, Phật giáo đã nhìn ra một mối quan hệ phổ biến, cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng – đó là mối quan hệ Nhân – Duyên - Quả. Thuyết này là sự phản ánh khái quát rút ra từ thế giới hiện tượng, đặc biệt là khi xem xét sự phát triển của tự nhiên. Cách nhận thức hợp lý này đã cung cấp cho người Việt một cách suy nghĩ mang tính chất nhân quả để nhìn con người, cuộc sống, vạn vật: “nhân nào, quả nấy”,”gieo gió, gặp bão”, “ở hiền gặp lành”.... Phạt giáo khuyến khích con người ăn ở nhân đức để có được cuộc sống tốt đẹp trong thời gian mai sau.
Phật giáo còn dạy muốn suy nghĩ thật khách quan cần phải có cái tâm bình tĩnh, tỉnh táo. Tâm nhảy nhót như khỉ vượn, bị thiêu đốt bởi tham lam, hận thù, si mê, tâm đứng ở nhị kiến, thích và không thích, yêu và ghét, thì nhận thức không thể nào khách quan được. Tâm như vậy giống như mặt nước hồ qua trận cuồng phong làm nổi sóng, vẩn đục và không thể nào thấy được những viên cuội dưới đáy sông. Muốn cho tâm được yên tĩnh, tỉnh táo thì việc đầu tiên là nên nghĩ và làm những điều thiện. Đạo Phật hướng người Việt tới việc suy nghĩ về làm những điều thiện, làm lành lánh giữ. Trong các loại nghiệp của con người có 3 loại nghiệp quan trọng nhất là thân, khẩu, ý. Trong đó Phật giáo coi nghiệp ý (về tư duy, suy nghĩ) là quan trọng nhất. “Tổng vệ sinh”, “làm sạch” tư duy vừa là công việc khẩn thiết vừa là công việc thường xuyên từng giờ, từng phút với mỗi Phật tử. Chính vì quan tâm cứu vớt con người trước bất công đau khổ nên người Việt đã tiếp thu và nhiệt tình ủng hộ đạo Phật.
Đạo hiếu là nền tảng đạo đức của người dân việt và chịu ảnh hưởng trực tiếp của phật giáo. Đạo hiếu là truyền thống quý báu của dân tộc ta, là bản chất người Việt Nam từ xa xưa. Tập tục của người Việt Nam thể hiện tinh thần hiếu đạo qua việc thờ cúng tổ tiên trong mọi gia đình, mà chúng ta thường gọi là đạo ông bà. Có thể nói, báo hiếu này là điểm tựa tinh thần cững chắc và cũng là nền tảng đạo đức của dân tộc ta và nó chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những lơi răn dạy của Thế Tôn, của Phật giáo : “Tâm hiếu là tâm Phật, Hạnh hiếu là hạnh Phật”.
2.1.2. Chính trị
Phật giáo ảnh hưởng rất lớn tới mọi mặt của Văn hóa- Xã hội của đất nước, Từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến ngày nay, trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử nhưng Phật giáo vẫn có sức ảnh hưởng tới chính trị Việt Nam, tới các nhà nước của Việt Nam.
Dưới hai triều Đinh và Lê, các nhà vua của hai triều này đều coi trọng Phật giáo, nhiều nhà Sư đã trở thành cố vấn cho các ông vua về đường lối đối nội và đối ngoại. Nhà chùa đã thực sự trở thành nơi hun đúc lòng yêu nước, một trung tâm của ý thức và niềm tin vào độc lập dân tộc, có sức ảnh hưởng rộng khắp trong dân gian. Tuy nhiên, Các vua Đinh – Tiền Lê chưa thực sự áp dụng việc trị nước dựa vào tư tưởng từ bi, hỷ xả của đức Phật.
Sang thời Lý, nhận thấy tư tưởng và giáo lý của đạo Phật có nhiều điểm phù hợp với việc trị quốc trong thời bình nên các vua nhà Lý coi trọng tăng đoàn – một phần vì mến đạo nhưng cũng một phần vì lý do chính trị. Nhờ vào học vấn và tài lực của chư tăng Phật tử thời Lý mà Đại Việt ổn định về chính trị và phát triển hơn các thời trước về văn hóa xã hội. Không chỉ giữ vai trò ổn định hệ thống chính trị, Phật giáo thời Lý còn tác động không nhỏ đến tình trạng phát triển kinh tế xã hội. Thực tế lịch sử đã chứng minh, bản thân các vua Thiền sư thời Lý đã tự trau dồi đạo đức vô ngã, triết lý sống nhập thế trên cơ sở tinh thần từ bi, hỷ xả, vô ngã của đạo Phật
Các vua Trần là những người có tri thức, lại uyên bác Phật học. Nhưng dù vị trí trực tiếp trong công việc chính sự của các tăng sĩ không còn nữa, Phật giáo lại vẫn phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hưởng trực tiếp lên chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành một tinh thần dân tộc thời bấy giờ. Phật giáo thật sự trở thành một thế lực tinh thần ủng hộ cho chính trị, và ngược lại, triều đình là một quyền lực củng cố cho Phật giáo.
Từ sau khi vua Trần Anh Tông băng hà, đạo Phật bắt đầu có chiều hướng đi xuống, sự đi xuống này cần được giải thích từ nguồn gốc sâu xa trong những vấn đề xã hội của Phật giáo. Có thể thấy là khi nền độc lập quốc gia đã trở nên vững vàng, việc củng cố quyền lực thống trị của mọi triều đại là không thể tránh khỏi.
Đến thời hậu Lê, thời Nguyễn, Nho giáo phát triển hơn, nhiều nhà Nho phủ nhận Phật giáo, coi đó là mê tín. Hơn nữa, từ giữa thời nhà Nguyễn có sự du nhập của văn hóa phương Tây và sự thống trị của thực dân Pháp nên Phật giáo không còn được coi là quốc giáo, không còn tầm ảnh hưởng tới chính trị.
Tuy nhiên, Khi nước ta giành được độc lập, Đảng lên nắm quyền, thì Phật giáo lại được khôi phục những vị thế của mình. Trong quốc hội ngày nay các nhà sư cũng có một tiếng nói khá quan trọng trong các quyết định của Đảng. Tư tưởng phật giáo cũng được áp dụng trong luật pháp của Việt Nam, đó là luật khoan hồng, giảm tội cho các phạm nhân cải tạo tốt. Tư tưởng bình đẳng trong triết học phật giáo giữa con người với con người cũng đã được thể hiện một phần tích cực trong đường lối lãnh đạo của Nhà nước Việt Nam đó là làm sao để dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Giai đọan đổi mới và hội nhập hiện nay là một cơ hội tuyệt vời cho khái niệm “Tri hành hợp nhất” của Phật giáo có thể nói ngay bây giờ, rất cần những ngọn lửa bùng cao, tỏa rộng và đồng thời liên tục mở ra các cuộc hội thảo quốc tế như thế này để nhân tài hướng về, có vậy thì vượn khí của quốc gia mới hội tụ và vận hành theo chiều hướng phát triển. Chính vì vậy triết học phật giáo cần phải phát triển, cập nhật để luôn trở thành người bạn đồng hành tuyệt vời của chính phủ.
2.1.3. Văn hóa
Có thể thấy, đạo Phật ảnh hưởng rất lớn tới văn hóa của chúng ta. Đạo Phật du nhập vào Việt Nam kết hợp với văn hóa bản địa đã tạo nên sự riêng biệt, khác biệt so với giáo lý đạo Phật gốc. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này qua ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, … Qua nhiều thế hệ, các tác phẩm dân gian đều được truyền thụ cho thế hệ sau, thế hệ trước luôn dạy thế hệ sau phải ăn ở hiền lành, chăm chỉ làm việc, phải biết yêu thương con người, luôn luôn ghi nhớ nguồn gốc của mình…Đây chính là sự thể hiện khác đi của tư tưởng phật giáo về sự tư bi, hỷ xả, về quy luật nhân quả. Dù trải qua hàng ngàn năm lịch sử, bị đô hộ, bị chiến tranh, những tư tưởng biện chứng trong phật giáo vẫn phát triển và ảnh hưởng lớn tới nước ta, là một giáo lý truyền thống mà mọi nhà, mọi người đem ra để nghiền ngẫm, để truyền dạy cho con cháu mình: “lá lành đùm lá rách”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Đó là cách cư xử đầy yêu thương nhân ái giữa người với người, nhắc nhở con người phải luôn làm việc thiện, nghĩ điều thiện có như thế mới có thể nhận được những điều tốt đẹp. Nếu làm điều ác, nghĩ điều ác thì không chỉ mình mà con cái mình cũng chỉ nhận được những điều xấu, điều gở.
Bên cạnh lối sống tốt đẹp, Phật giáo còn để lại những kiến trúc đẹp mang hồn dân tộc, in đậm dấu ấn của từng thời kỳ: Đó là những ngôi chùa, mái đình cổ. Kiến trúc của những ngôi chùa, ngôi đình của các thời rất khác nhau, nhưng đều thể hiện nét linh thiêng, là nơi mà dân trong làng tụ tập để bàn việc trọng đại của làng, là trung tâm trong các lễ hội. Những nét văn hóa đi lễ chùa ngày tết, ngày đầu tháng, tổ chức lễ hội được dân ta kế thừa, lưu giữ qua bao đời. Những nét truyền thống đó là những nét đẹp của dân tộc ta, là thể hiện những truyền thống lâu đời, thể hiện cái riêng biệt của Việt Nam. Người Việt Nam dù đi đâu cũng luôn nhớ tới: “cây đa, giếng nước, mái đình”. Những hình đó đã in đậm vào tâm hồn Việt, trở thành hình ảnh thân thiết, là máu thị, là quê hương. Người Việt Nam có tinh thần yêu quê hương đất nước, yêu thương con người sâu sắc, rộng lớn cùng với thái độ tôn trọng, đề cao những giá trị tốt đẹp của con người.
Ngày nay, khi có sự du nhập của văn hóa phương Tây, nhiều nét truyền thống không còn giữ nguyên vẹn như xưa, nhưng chúng ta đã khẳng định văn hóa của mình trong thời kỳ hiện đại là ‘hòa nhập chứ không hòa tan’, chúng ta tiếp thu các nét văn hóa tiến bộ của người khác nhưng luôn giữ cho mình những nét văn hóa rất riêng. Chúng ta mở cửa để tiếp thu những cái hay, cái văn minh, nhưng không bao giờ từ bỏ những cái tốt đẹp trong văn hóa của mình. Đương nhiên không thể phủ nhận một bộ phận giới trẻ có học một cách quá mức văn hóa phương Tây, sống quá phóng khoáng mà đánh mất bản thân. Họ sa đà vào tệ nạn xã hội, tôn sùng chủ nghĩa thụ hưởng trụy lạc, chẳng cần biết ngày mai. Đó là con đường dẫn họ và giới trẻ đến nghiện ngập, hút chích, ma túy, hoặc nặng hơn có thể đi đến tự sát! Nói theo lương tâm, muốn cho nước nhà sau khi hội nhập được phát triển và bền vững, thì mọi giới trong xã hội phải ý thức được mình đang ở đâu.
2.2. Quan hệ giữa người với thế giới xung quanh
2.2.1. Cải tạo môi trường phục vụ cho cuộc sống của mình
Đối với môi trường, đạo Phật có cái nhìn rất đặc trưng không giống như những tôn giáo khác. Qua lăng kính duyên khởi, môi trường chính là yếu tố quan trọng đối với sự sống chúng ta. Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt. Con người trong từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, nhờ hít thở không khí mà sống, nếu thiếu không khí thì vạn vật đều bị hủy diệt. Không khí trong lành, con người sống khỏe mạnh trường thọ. Không khí ô nhiễm, con người bị đau yếu, bệnh tật, chết yểu. Không khí, cảnh vật tạo nên môi trường sống. Vì vậy, môi trường chung quanh rất quan trọng trong đời sống con người.
Hiện nay, nhân loại đang phải chịu đựng những biến chuyển bất thường tai hại do chính con người tạo ra làm hủy diệt môi trường, ô nhiễm môi sinh, chặt phá cây cối, đốt rừng làm rẫy, khai thác cây gỗ, đất đá, nước ngầm một cách bừa bãi mà hậu quả là lũ lụt, hạn hán, sóng thần, động đất đe dọa đời sống của nhân loại.
Người Phật tử ý thức điều này, từ xưa đến nay thích sống với thiên nhiên, coi trọng thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên để tạo một cuộc sống tốt, hòa nhập với thiên nhiên trong mọi sinh hoạt để nâng cao đời sống tâm linh, hướng thượng và thánh thiện.
Ngày xưa, các vị vua chúa thỉnh thoảng tổ chức những cuộc tuần du, săn bắn, mục đích săn thú thì ít mà dã ngoại để sống với thiên nhiên thì nhiều. Người ta lúc về già hay lo nghĩ đến hậu sự cho mình, các vua chúa cũng tìm trước cho mình nơi để xây lăng tẩm, mộ phần ở những nơi có núi, sông, cảnh trí thiên nhiên thơ mộng.
Trong cuộc sống văn minh hiện nay, con người đang quan tâm, đang nỗ lực bồi đắp trả lại những gì đã cướp mất của thiên nhiên nhưng không thấm vào đâu so với những gì mà con người đã phá hoại. Song, có còn hơn không; nơi nào còn và có thì cố gắng bảo tồn, nơi nào chưa hay không có cũng tìm cách tạo nên cho có. Các công viên trong thành phố, các bồn hoa được chăm sóc chu đáo, chính là để giảm bớt sự nặng nề, khô khan của nhà đúc, nhà xây, đường nhựa nóng bỏng, các nhà lầu cao tầng cũng cố tạo cho được một khoảng nhỏ không gian để trồng hoa, trồng cỏ. Trong phòng khách cũng trang trí cây cảnh, cỏ cây; thật thì tốt, không có thì cỏ cây giả, chậu giả cũng làm cho phòng khách trang nhã dễ thương. Các công sở, xí nghiệp, công ty cũng trang trí trước sân, trước cổng các bồn hoa, cây cảnh để thêm vẽ trang nhã, trịnh trọng cho cơ sở mình. …Phật dạy: “Tàn phá thiên nhiên là một tội ác”. Hơn ai hết, người Phật tử sống hòa nhập với thiên nhiên, cảm nhận trọn vẹn sự cần thiết của thiên nhiên, phải biết bảo vệ thiên nhiên, xem như là một bổn phận cao cả để xứng đáng làm người.
2.2.2. Đấu tranh giải phóng dân tộc
Trong xã hội phong kiến, các hoạt động của nhà chùa đã gắn chặt với hoạt động của nhà nước phong kiến, đem lại cho chính quyền phong kiến ánh hào quang của sự tốt lành và nhân đạo. Nhiều nhà sư là những viên quan có uy tín trong chính quyền nhà nước, là những nhà quân sự, những cố vấn trong cung đình, những nhà ngoại giao, những nhà văn hóa. Nhà nước phong kiến sử dụng đạo Phật trong việc thực hiện chính sách đối nội, quan hệ ngoại giao với các nước khác.
Tư tưởng bình đẳng bác ái của Phật giáo đã tác động quan trọng vào tư tưởng bình đẳng dân tộc trong nhân dân ta để không thể ngồi im chịu áp bức bóc lột của dân tộc khác. Đồng thời, tư tưởng vô ngã của Phật giáo cũng đã tác động đến tinh thần không ngại hi sinh vì độc lập tự do của đất nước. Vì thế, những người trí thức dân tộc được sản sinh ra từ Phật giáo, mang tinh thần của Phật giáo không thể không cứu đời. Hoạt động theo tư tưởng bình đẳng bác ái của Phật giáo, họ sẵn sàng đứng lên lãnh đạo nhân dân trong giải phóng dân tộc.
Lí Bí sau khi khởi nghĩa đánh quân Lương dựng nước Vạn Xuân, xưng Lí Nam Đế, đã cho dựng chùa Khai Quốc làm nơi di dưỡng văn hóa tinh thần. Đinh Bộ Linh đập tan loạn 12 sứ quân nắm quyền cai trị đất nước đã phong nhà sư Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại Sư, nhà sư được quyền tham gia bàn luận triều chính.
Ngay từ khi Pháp đặt chân xâm lược Nam Bộ, nhiều ngôi chùa được lập ra để làm cơ sở tập hợp lực lượng kháng chiến chống Pháp như: chùa Tam Bửu lập năm 1872 ở Ba Chúc, An Giang, do nhà sư Ngô Văn Lợi khởi xướng. Chùa Long Khánh ở Gia Định là một cơ sở hội kín, nhà sư Đoàn Văn Huyên khởi xướng Phật giáo Bửu Sơn Kì Hương mưu việc chống Pháp.
Khi đất nước bước vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo thì những ngôi chùa trên cả nước, với tính chất là những cơ sở tôn giáo, được ở “ngoài vòng pháp luật” nên đã trở thành những cơ sở cách mạng, nhiều nhà sư có lòng yêu nước đã giúp đỡ che chở cho những cán bộ cách mạng. Chùa Đồng Kị ở Tiên Du- Bắc Ninh đã là nơi diễn ra Hội nghị ban thường vụ TW Đảng họp bàn, ra nghị quyết “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Theo số liêu thống kê của Ủy ban TW giáo hội Phật giáo Việt Nam (1997) trong cả nước ta có 392 ngôi chùa là di tích lịch sử cách mạng, có một bà mẹ Việt Nam anh hùng là nhà sư, 3 liệt sĩ là nhà sư, và nhiều nhà sư tham gia cách mạng.
Ngày nay giáo hội Phật giáo Việt Nam là một thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phật giáo có đại biểu trong Quốc hội. Với khẩu hiệu hành động của người tu hành Phật giáo là “Đạo pháp, dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” đã làm cho Phật giáo ngày nay gắn liền với đời, làm cho Phật giáo vẫn hòa được vào việc tăng cường văn hóa chính trị xã hội ở nước ta.
2.2.3. Hội nhập kinh tế thế giới
Đạo Phật du nhập vào nước ta đến nay đã trải qua
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư duy biện chứng trong triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới tư duy của người Việt Nam.doc