Mục lục
I.Mở đầu 1
II. Sự hình thành tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường 1
1.Hoàn cảnh kinh tế nước ta những năm 80 thế kỷ 20
2.Hình thành sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
III. Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các kỳ Đại hội 3
1.Từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
2.Từ Đại hội IX đến Đại hội XI
IV. Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới 6
V. Hướng giải quyết và mục tiêu phát triển của Đảng về kinh tế thị trường trong những năm tới 9
VI. Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 14
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 21822 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường trong 20 năm đổi mới ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên nhiên, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư …thì Đảng ta cần có tư duy đổi mới đúng đắn nhất là về lĩnh vực phát triển kinh tế. Đó là nhiệm vụ đặt ra vô cùng cấp bách và khó khăn, bởi lẽ trong bối cảnh hiện nay bên cạnh tình hình kinh tế còn nhiều biến động nước ta phải đối mặt với vấn đề an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ diễn ra rất phức tạp và khó lường trước .
Sau khi tìm hiểu và tiếp thu môn học “ Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ” em đã phần nào hiểu được tầm quan trong về những quyết sách đúng đắn của Đảng về công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong. Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “ Tư duy mới của Đảng về KTTT trong 20 năm đổi mới ở nước ta ” với mong muốn tìm hiểu đường lối chính sách của Đảng và những thành tựu đạt được cùng với những thách thức sắp tới.
II. Sự hình thành tư duy mới của Đảng về kinh tế thị trường
1.Hoàn cảnh kinh tế nước ta những năm 80 thế kỷ 20
Nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính và những chỉ tiêu áp đặt từ trên xuống .Phương hướng sản xuất, nguồn vật tư tiền vốn,định giá sản phẩm,tổ chức nhà máy, nhân sự, tiền lương…đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Các doanh nghiệp được cấp phát vốn và nộp cho nhà nước .”Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu” [1,143]. Các cơ quan hành chính can thiệp sâu dẫn đến doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh .Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Các tư liệu sản xuất, phát minh sáng chế, sức lao động không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
“Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngủ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động”[1,143].
Chế độ bao cấp của nước ta được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu : bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn.
Với những cơ chế như vậy có những mặt tích cực về việc tập trung vốn cho những lĩnh vực mũi nhọn trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy cơ chế bao cấp đã làm tăng gánh nặng đối với ngân sách nhà nước, vừa làm vừa cho nên việc sử dụng kém hiệu quả, sinh ra cơ chế “xin cho”.Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, không kích thích tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tất cả những điều đó làm cho một số nước XHCN khác lâm vào tính trạng khủng hoảng,trì trệ.
2.Hình thành sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Dưới thời kỳ bao cấp chúng ta chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, quá coi trọng việc thực hiện kế hoạch hóa theo phương hướng xã hội chủ nghĩa, muốn xóa bỏ ngay chế độ sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, trong khi đó không thừa nhận thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần rất năng động phát triển mà lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Dưới sức ép nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng, chúng ta đã có những bước đi đầu chuyển sang hướng thị trường mặc dù chưa triệt để, ví dụ như: khoán sản phẩm, bù giá vào lương, Nghị quyết TW khóa V về giá-lương-tiền, thực hiện Nghị định 25-CP và 26-CP của Chính phủ… Đó là những nét mới khi chúng ta bắt đầu cải cách để đến khi Đại hội VI họp chính thức ,Đảng ta đã đi đến quyết định :” Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [3,387]. Như vậy, về cơ bản đất nước đã chính thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng thị trường.
III. Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các kỳ Đại hội
1.Từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Đại hội VI được họp vào ngày 18/12/1986. Trong lúc hoàn cảnh tình hình kinh tế diễn ra theo chiều hướng xấu, Đại hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng ,đánh giá tình hình, những tồn tại yếu kém “Đại hội chủ trương đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận là cơ bản, đổi mới tư duy kinh tế là trọng tâm, đổi mới với các hình thức bước đi thích hợp. Đổi mới trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.”[2,55]. Đại hội nhấn mạnh, tập trung sức người sức của vào việc thực hiện 3 chương trình, mục tiêu : lương thực thực phẩm, hang tiêu dùng, hang xuất khẩu. Đây là đại hội được đánh giá là “trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới”.
Trong 5 năm tiến hành đổi mới (1986-1991) nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế. Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, thông qua nội dung các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm 1991-1996. Đại hội đã khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo “cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước”.Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện Thị trường có nhiệm vụ trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả. Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.
Sau 10 năm đổi mới (1986-1996) Đại hội VIII đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, chỉ rõ thời cơ trước mắt cùng những thách thức mới. Thông qua nội dung và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1996-2000).Đại hội VIII diễn ra đánh dấu bước chuyển biến của nước ta sang thời kỳ đổi mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy so với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường trong các kỳ Đại hội này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc
“Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ” [1,146-148-149].
Đánh giá được đúng tầm quan trọng của kinh tế thị trường là bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.Tiếp tục kế thừa và phát triển nền kinh tế đất nước theo con đường đinh hướng xã hội chủ nghĩa lên mức cao nhất.
2.Từ Đại hội IX đến Đại hội XI
Định hướng bước đi của nền kinh tế đất nước ta đã rõ ràng, nhưng việc thực hiện gặp nhiều khó khăn và thách thức vì đây là mô hình kinh tế mới, phải đảm bảo theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX diễn ra từ ngày 19/4 đến 22/4/2001 với mục tiêu thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2010. Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện như: Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010; phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đánh giá những thành tựu đạt được trong 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000). Xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” ,” một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” [4] .Dùng kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống nhân dân.Tính định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. “ Tính định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ” [1,152]. “Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội "Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới", thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”[4].
Kế thừa và phát huy theo con đường đó, Đại hội X đã diễn ra ngày 18/4 đến 25/4/2006 thông qua báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010. Trong bối cảnh đất nước ta tiếp tục chuyển dịch theo cơ cấu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định. Trong đó việc hội nhập quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến rất quan trọng
như việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu. Đại hội X tiếp tục đề ra những giải pháp để khắc phục tình trạng còn yếu kém : Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Từ thực tiễn đó Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn và những tư tưởng chỉ đạo để phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới là :
“Bài học về phát triển nhanh và bền vững
Bài học về huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nội lực
Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Bài học về phát triển kinh tế thị trường đồng thời với chăm lo ngày càng tốt hơn phúc lợi xã hội
Bài học về công tác tổ chức thực hiện và tuyển chọn đúng cán bộ” [4]
Mới đây Đại hội XI đã diễn ra từ ngày 12/1 đến 19/1/2011 đã tổng kết 25 năm
đổi mới của đất nước ta. Trong đó đã nêu ra một số vấn đề mới và nội dung quan trọng : Về đổi mới kinh tế và chính trị, mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, yêu cầu phát triển bền vững kinh tế nước ta và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Trong đó để giữ vững mục tiêu này, Đại hội đã nêu ra những nội dung cơ bản sau:
- Về mục đích, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Về mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chủ thể kinh tế, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ, phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
- Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận các cơ hội kinh doanh và phân phối kết quả làm ra.
- Phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế của Nhà nước, chú trọng phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
IV. Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới
Với những bước đi đúng đắn về cách thay đổi tư duy, hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình Kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,23%.GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD. Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385USD). Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Trong 20 năm qua, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002.
Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình (0,498) năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005 Việt Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra;
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”
V. Hướng giải quyết và mục tiêu phát triển của Đảng về kinh tế thị trường trong những năm tới
Qua hơn 20 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải thiện đời sống nhân dân. Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế thật sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI của Đảng khởi xướng. Đến Đại hội VII, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được khẳng định là chủ trương lớn, chủ đạo của đường lối đổi mới của nước ta. Đại đội IX của Đảng đã khẳng định chủ trương: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại thành tựu to lớn cho đất nước. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh tế, tiền tệ thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998 và đặc biệt năm 2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế của các thế lực thù địch. Hiện chúng ta đã có quan hệ thương mại với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với gần 100 quốc gia và có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc với 81 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch chống nước ta, đều coi Việt Nam là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định, là nơi đầu tư hết sức lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, không ít quốc gia lớn, có tiềm lực kinh tế xem Việt Nam là đối tác kinh tế chiến lược. Những thành tựu đạt được trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng trong thời gian qua là hết sức to lớn, có thể ví như một cuộc cách mạng thật sự về kinh tế đối với nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành tựu bước đầu, để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách quan với các yếu tố cơ bản sau:
Một là, sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là sử dụng có hiệu quả tri thức và những sáng tạo mới của con người để đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và công nghệ. Nền kinh tế tri thức là điều kiện thuận lợi, là phương tiện để các quốc gia tăng tốc phát triển kinh tế. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, một mặt tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận những thành tựu của nhân loại, mặt khác nó buộc chúng ta phải đổi mới tư duy trong ban hành và tổ chức thực hiện chính sách kinh tế.
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện hết sức thuận lợi để các quốc gia đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo nên những thách thức không nhỏ đối với các quốc gia. Toàn cầu hóa tạo điều kiện giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia, trên cơ sở đó các quốc gia có thể tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại để phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó là quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp để tồn tại, đặc biệt là đấu tranh giữa các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia thực hiện công cuộc cải cách của mình, đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô. Toàn cầu hóa tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất, là điều kiện để khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra nhiều thách thức không nhỏ đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển. Do vậy, để khỏi bị gạt ra ngoài lề phát triển của thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế thành công thì chúng ta phải tiếp tục đổi mới trong nhận thức, trong tư duy về kinh tế.
Ba là, năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn yếu. Một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay trong hội nhập kinh tế quốc tế là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, sản phẩm và quốc gia còn yếu, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lợi thế lao động rẻ và tài nguyên. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì Việt Nam vẫn nằm trong số 60 nước có môi trường kinh doanh khó khăn nhất; đánh giá của WEF, Ngân hàng thế giới và Công ty tài chính quốc tế về năng lực cạnh tranh toàn cầu thì năm 2006, 2007 Việt Nam xếp hạng 77/125 quốc gia, tụt 3 bậc so với năm 2005. Nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chậm đổi mới về tư duy kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sự đổi mới không theo kịp với xu hướng phát triển của thời đại đã làm kìm hãm phát triển của doanh nghiệp và quốc gia. Thời gian qua, chúng ta chỉ tập trung vào các nhân tố bên trong, dựa vào nội lực là chính, chưa thật sự đánh giá đúng vai trò, cũng như sức ép từ các nhân tố bên ngoài trong phát triển kinh tế. Doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm đến hội nhập, chưa thật sự chủ động thay đổi tư duy, cách thức tổ chức cho phù hợp với điều kiện mới của môi trường cạnh tranh quốc tế. Trong hơn 20 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu kinh tế hết sức ấn tượng, song khách quan mà nói nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, đổi mới tư duy về kinh tế chưa theo kịp với sự biến đổi nhanh chóng của thời đại, nhất là những thay đổi của nhân loại mang tính đột phá như công nghệ thông tin, kinh tế tri thức, công nghệ sinh học, mô hình phát triển kinh tế. Việt Nam cũng đã có những thứ hạng đáng kể về xuất khẩu một số mặt hàng và thu hút đầu tư, song nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan thì chưa thật sự tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế để tiếp tục cải thiện vị thế của mình trong cộng đồng kinh tế quốc tế.
Bốn là, những bất cập của thực tiễn cuộc sống. Sự phát triển kinh tế trong thời gian qua, đặc biệt là sự tăng lên mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp và huy động vốn đầu tư đang gặp những rào cản. Đó là tình trạng ban hành chính sách kinh tế chưa phù hợp với thực tế, còn có những bất cập trong việc ban hành và thực thi chính sách, nhất là chính sách đất đai và tín dụng. Môi trường kinh doanh chưa thật sự thuận lợi. Hiện nay, tiềm lực nội tại của nền kinh tế nước ta vẫn còn rất lớn, nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được sử dụng vào đầu tư phát triển kinh tế. Trong một số khu vực kinh tế đã có dấu hiệu chững lại. Sự phát triển kinh tế đang kéo theo nhiều vấn đề cần phải giải quyết như khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, tài nguyên và môi trường bị ảnh hưởng nặng nề, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao... Như vậy Đảng ta cần có những hướng đi cụ thể sau :
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, ḥòa bình, hợp tác và phát triển. Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế
- Phát huy tối ưu các lợi thế so sánh của đất nước trong phân công lao động và hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó tạo ra những đột phá mới về kinh tế.
- Phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại, có sức cạnh tranh cao.
- Lấy con người làm trung tâm phát triển.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lý của nhà nước trong kinh tế.
- Thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa bảo đảm tránh tụt hậu nền kinh tế và bảo đảm các bước đi vững chắc trên con đường độc lập dân tộc và chủ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_1104.doc