Không trực tiếp bày tỏ tình cảm, chàng trai trong bài thơ tưởng chừng như không cảm xúc. Song, chính bằng cách miêu tả nỗi đau của những người thân qua các câu thơ đầy hình ảnh và giàu sức gợi, chàng trai đã nói lên nỗi lòng của mình. Nỗi đau mất vợ ấy không mãnh liệt như Giang Nam, không ngỡ ngàng như Vũ Cao mà nỗi đau ấy cứ từ từ ngấm vào từng làn da thớ thịt. Không biểu hiện ra ngay từ giây phút đầu tiên mà gặm nhấm qua tháng năm. Không ai có thể cân đong nỗi đau nào nhiều hơn bởi lẽ đó là sự mất mát lớn lao, mất đi người yêu dấu, người ấp ôm trái tim, tình yêu của mình. Song, với Vũ Cao em là đồng chí, tình yêu gắn liền với tình đồng đội, cùng chung lý tưởng (Nhớ nhau, anh gọi: em, đồng chí).
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Từ nguyên mẫu anh đề trở thành hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------
TIỂU LUẬN
CHUYÊN ĐỀ: TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO VĂN HỌC
TỪ NGUYÊN MẪU ANH ĐỀ TRỞ THÀNH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TNÚ TRONG TÁC PHẨM “RỪNG XÀ NU” CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH
Giáo viên : PGS.TS Trần Khánh Thành
Học viên thực hiện : Bùi Thị Mai Hương
Lớp : CH Văn K51
Hà Nội, 10-2007
Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc đời một cách độc đáo. nhà văn là người “ Thư kí trung thành của thời đại” đồng thời cũng là nhà nghệ sĩ sáng tạo tài ba. aTừ hàng trăm mảnh đởi, từ nhiều sự kiện người nghệ sĩ chọn lọc, tổng hợp, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật “vừa lạ, vừa quen” có sức khái quát cao. Tuy nhiên với khả năng phản ánh chân thực đời sống, văn học lại có thể tìm những mảnh đời có thật trong cuộc đời rồi hư cấu, sáng tạo thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, điển hình. Viết về vấn đề này đã có nhiều tác giả thành công như: “Chí Phèo” của Nam Cao với hai nhân vật chính là Bá Kiến và Chí Phèo đều được khai thác từ những nguyên mẫu có thật ở làng Vũ Đại, hình tượng Chị Sứ trong tác phẩm “Hòn Đất” của Anh Đức cũng là dựa từ nguyên mẫu hay “Đôi mắt” - “Đất nước đứng lên”, “Rừng xà nu”…
Để viết thành công từ một nguyên mẫu để dựng lên một cuộc đời có tính tiêu biểu, khái quát cho một lớp người trong xã hội. Nhà văn một mặt phải lựa chọn những chi tiết đặc sắc, nổi bật từ chính cuộc đời của nhân vật nguyên mẫu sau đó tưởng tượng hư cấu thêm. Với mục đích sáng tạo để nhân vật trong tác phẩm phải sinh động hơn, chân thực hơn, hấp dẫn hơn và quan trọng nhất là phải điển hình hơn so với ngoài đời, các nhà văn phải xây dựng cho nhân vật của mình có đời sống đầy đặn từ nội tâm đến ngoại hình, từ cảm xúc, lí trí đến hành động. Đây cũng là một phương diện để đánh giá khả năng tưởng tượng phong phú của nhà văn. Như vậy, mối quan hệ giữa nguyên mẫu và hư cấu là một vấn đề để đánh giá được năng lực của nghệ sĩ.
Trong bài viết này, người viết muốn đề cập đến mối quan hệ giữa nguyên mẫu và hư cấu trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Bài viết sẽ đi tìm hiểu những yếu tố nào là nguyên mẫu để đối sách với hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm từ đó đánh giá được vai trò, ý nghĩa của những chi tiết hư cấu, sáng tạo.
Rừng xà nu là tác phẩm thành công của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nội dung tác phẩm đi vào phản ánh và ca ngợi sự anh dũng, tinh thần yêu nước của nhân dân Tây Nguyên. Thật may mắn trong cuộc đời cầm bút của mình, nhà văn đã có một quãng thời gian gắn bó với đời sống của bà con Tây Nguyên, chính vì vậy mà ông hiểu biết khá nhiều những phong tụ tập quán, truyền thống văn hóa và con người nơi đây. Cũng trong khoảng thời gian này anh gặp một số chiến sĩ dân tộc thiểu số: Anh Đề, Ông Mết, Chị Dít. Ba con người này sau này trở thành những nguyên mẫu để nhà văn khai thác và sáng tạo ra những nhân vật chính trong truyện ngắn “Rừng xà nu” .
Tuy nhiên không phải sau khi gặp ông Mết, Anh Đề và diện tích là nhà văn hình thành ý tưởng sáng tác ngay. Ý tưởng bắt đầu hình thành khi 1965 khi cuộc chiến đấu giữa ta và quân Mỹ bước vào giai đoạn căng thẳng quyết liệt, lúc này cần phải viết. Vậy là những kí ức về Tây Nguyên, về anh Đề, ông Mết, Dít hiện về. Nguyễn Trung Thành bắt đầu sáng tạo.
Khi viết “Rừng xà nu” nhà văn chọn viết về cuộc đời, số phận và cuộc khởi nghĩa của anh Đề (sau thay tên là Tnú). Đây là nhân vật mà nhà văn đã hư cấu và sáng tạo nhiều nhất để anh Đề là một anh hùng ngoài đời thường trở thành hình tượng người anh hùng tiêu biểu cho nhân dân Tây Nguyên là một hình tượng nghệ thuật đạt đến độ hoàn chỉnh.
1. Mối quan hệ giữa nguyên mẫu và hư cấu trong quá trình xây dựng nhân vật Tnú.
a- Nguyên mẫu của nhân vật Tnú: như trên đã nói, đó là cuộc đời anh Đề. Trong một lần lạc đường nhà văn tìm vào làng Xê Đăng, ở đó anh gặp anh Đề là người đứng đầu làng này. Suốt mấy đêm liền bên bếp lửa nhà sàn đốt đuốc suốt đêm để chống rét bằng củi xà nu, anh Đề đã kể cho nhà văn nghe chuyện năm 1959 anh cùng với 10 trai làng dùng dao rựa, giáo mác giết sạch một tiểu đội lính Diệm bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang ở nơi đây.
b. Sự hư cấu, sáng tạo để cuộc đời anh Đề trở thành hình tượng nhân vật Tnú.
Có thể nói cuộc đời anh Đề là cuộc đời anh hùng khi xây dựng nhân vật Tnú thì nhà văn đã dày công, sáng tạo, lựa chọn khá nhiều chi tiết để nhân vật của mình trở nên đầy đặn hơn đặc sắc hơn.
Tnú được miêu tả từ khi còn nhỏ đến trưởng thành. Tnú vốn mồ côi cha mẹ, anh sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của nhân dân làng Xô Man. Ngay từ khi còn bé Tnú đã là đứa trẻ gan dạ, mặc dù chứng kiến cảnh những người nuôi dấu cán bộ bị giết hại dã man nhưng Tnú vẫn quyết tâm đi theo và làm nhiệm vụ của cách mạng giao cho. Đi làm liên lạc, nó không đi đường mòn mà nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi hoặc chọn chỗ nước dữ chứ không chọn nước êm bởi chỗ nước êm địch hay phục. Tnú khao khát học tập, khi quên chữ nó đập đầu vào đá đến chảy máu. Những tính cách ấy tất yếu dẫn đến Tnú là cán bộ cách mạng xuất sắc của làng.
Song Tnú phải điển hình, phải trở thành hình tượng nghệ thuật xuất sắc. Xuất phát từ chiến công anh Đề cùng 10 trai làng giết chết một tiểu đội giặc, nhà văn bắt đầu xây dựng Tnú nhưng làm sao để có một sự bừng dậy mạnh mẽ để giết giặc, nhà văn cho rằng tất yếu nó phải xuất phát từ nỗi đau riêng bức bách dữ dội bật ra từ nỗi đau chung của xóm làng dân tộc.
Thế là lại hư cấu. Nhà văn đã lựa chọn những chi tiết thật đặc sắc tiêu biểu khi viết về vấn đề này. Nỗi đau của Tnú là nỗi đau dữ dội cả về thể xác và tinh thần.
Tnú và dân làng đang hoạt động cách mạng thì bọn thằng Dục truy lùng, chúng bắt Dít tra tấn, không được gì, chúng bắt mẹ con Mai. Tnú đứng nấp sau cây vả chứng kiến cảnh bọn chúng đánh đập tra tấn mẹ con Mai đến mức tàn bạo, dù tra tấn bị đau đớn nhưng Mai không khai nửa lời. Sự tàn bạo của giặc đã giết chết mẹ con Mai. Không chịu đựng được Tnú lao ra cứu mẹ con Mai và anh lại bị bọn chúng tra tấn. Bọn thằng Dục quấn giẻ trên 10 đầu ngón tay của Tnú và nó lấy cây lửa đốt 10 ngón tay anh, mười ngón tay thành 10 ngọn đuốc. Nỗi đau truyền khắp cơ thể, cả trong tim trong ruột. Từ nỗi đau thể xác và tinh thần đã tích tụ và bật lên một sự vùng dậy dữ dội, vùng dậy để đánh kẻ thù. Nỗi đau của anh cũng như nỗi đau của toàn dân làng, Tnú thét lên một tiếng, tất cả thanh niên trong làng và cụ Mết đã chém chết hết lũ giặc.
Như vậy, vẫn nói về chiến công, có thể chiến công của anh Đề anh dũng không khác gì so với Tnú song với sự lựa chọn tài tình các chi tiết đặc sắc chiến công của Tnú và dân làng trở thành điểm sáng chói mang dư âm mãi về sự bi hùng của nhân dân Tây Nguyên. Cách kể chuyện Tnú là một người con của làng Xô Man rồi trở thành anh hùng là niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên thể hiện sự gần gũi trong cách viết của sử thi anh hùng.
2. Một vài nhân vật khác trong truyện
Bên cạnh Tnú còn có nguyên mẫu Ông Mết - Cuu Mết trong truyện. Ngoài đời thực ông Mết và anh hùng Núp là hai anh hùng cùa “đất rừng Tây Nguyên”. Vào tác phẩm ông vẫn giữ vai trò của mình như vậy song cách miêu tả cụ Mết khiến ta cảm giác ông trở thành niềm tin là tiếng nói của dân làng vừa thân thương vừa kính trọng đúng như nhà văn nói ông là cội nguồn là sức sống của nhân dân Tây Nguyên.
Hay nhân vật Dít cũng được dựng từ hình ảnh chị Dít - một cán bộ phụ nữ xã - một du kích mà nhà văn đã có lần gặp. Chị Dít không kể cho nhà văn nghe điều gì nhưng điều àm nhà văn cảm nhận được là chị là phụ nữ đẹp, một vẻ đẹp đúng chất người con gái Tây Nguyên có gì đó “vừa man dại vừa tinh tế” và hơi bí mật… Nhân vật Dít trong truyện là một cô gái can đảm chịu khó. Khi bị giặc tra tấn nó khóc ré lên nhưng đến viên thứ mười nó không khóc nữa mà nhìn lũ giặc với con mắt bình thản, lạ lùng. Sau này chứng kiến cái chết của Mai mất nó không khóc, ráo hoảnh và bình thản. Cái bình thản của Dít chính là lòng căm thù giặc đến tận cùng mà đạn bom, tra tấn không gì lay chuyển được.
Như vậy qua sự đối sánh giữa nguyên mẫu ngoài đời và nhân vật văn học, ta thấy sự hư cấu làm cho nhân vật có sức sống mãnh liệt hơn, như một nguyên lí đã nói: Văn học nghệ thuật sẽ “không thể tồn tại nếu không có hư cấu”… Mối quan hệ giữa nguyên mẫu và hư cấu là sự đồng cảm và sáng tạo đây cũng là một phần quan trọng tạo nên sự thành công cho văn học.
Đi trên đường phố Hà Nội vào một ngày lễ dành cho phái đẹp, đường phố ngập tràn sắc màu của muôn hoa và nồng nàn hương hoa sữa cuối thu. Từ góc phố nhỏ, tôi chợt nghe câu hát “rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím, chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim…”. Chàng trai trong bài hát kể cho người tình của mình nghe về một tình yêu cảm động giữa một người lính chiến và cô gái yêu màu tím hoa sim. Họ đã làm đám cưới trước cuộc hành quân tiếp theo của người lính. Ở lại quê nhà, cô gái đã chết trong chờ đợi. Câu chuyện của bài hát đã đưa tôi đến với “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Ở đó ta cũng gặp một tình yêu dang dở, được viết lên bàng ký ức buồn thương của tác giả.
Theo suốt chiều dài của lịch sử, chiến tranh không còn là một điều gì xa lạ. Nó đã từng ám ảnh bao mái nhà, bao số phận và bao trang thơ. Nó đã từng cướp đi bao máu, nước mắt và hạnh phúc lứa đôi. Đất nước đau thương thì sự không trọn vẹn của hạnh phúc lứa đôi có gì đáng kể. Thế mà sao vẫn cứ thương đau? “Núi Đôi” của Vũ Cao, “Quê hương” của Giang Nam cùng Hữu Loan chung dòng cảm xúc ấy. Đó là những xúc cảm mãnh liệt khi nghe tin về cái chết bất ngờ của người mà tác giả thương yêu (có thể là vợ hoặc là người yêu), từ đó những kỷ niệm cũ cứ thế và về với nỗi buồn đau, thương tiếc. Nếu như Vũ Cao nhớ về người yêu đã khuất gắn liền với hình ảnh Núi Đôi ấp ôm “núi vẫn đây mà anh mất em”, Giang Nam như nhớ về “em” với nụ cười “khúc khích và ánh mắt đen tròn, thương thương quá đi thôi”. Thì Hữu Loan nhớ về người vợ gắn liền với sắc tím hoa sim. Hình ảnh Núi Đôi nồng nàn, hạnh phúc: nụ cười khúc khích và ánh mắt đen tròn gợi nhớ sự sáng trong êm đềm của tuổi thơ; sắc tím hoa sim sao gợi buồn đến thế? Có phải ngay tự sắc màu ấy đã nặng trĩu những ưu hoài?
Từ: “Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết”.
Tác giả nhớ về người vợ thân yêu của mình bắt đầu bằng hoàn cảnh riêng:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Lời thơ không kể, song ta vẫn cảm thấy dường như trong ký ức nhà thơ hiện lên hình ảnh người thiếu nữ ngày ngày vất vả thay anh trai, giúp mẹ chăm sóc, lo lắng cho những đứa em nhỏ. Có nghĩa là người con gái ấy, ấn tượng với nhà thơ đầu tiên đó là vẻ đẹp của sự đảm đang, chịu thương chịu khó. Từ hình ảnh người vợ bé nhó gánh trên vai bao trách nhiệm nặng nề, màu tím hoa sim cứ thế hiện về trong khắc khoải.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Nghĩa là vẫn với trang phục hàng ngày “áo nàng màu tím hoa sim” giản dị mà thủy chung. Sắc áo tím trong ngày cưới, nàng hiện lên trong mắt người chồng quân nhân vẻ đẹp của tình yêu, có lẽ vì thế chăng mà cả bài thơ chợt hé lên một nụ cười.
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Không phải là nụ cười “khúc khích” vừa thẹn thùng vừa tinh nghịch của cô bé trong bài thơ “Quê hương” (Giang Nam), “xinh xinh” vừa hiền lành mà như có chút gì bé bỏng, yếu đuối của tâm hồn đa cảm, môngm mơ “yêu hoa sim tím”.
Những ngày vui trọn vẹn cùng người vợ trẻ với cảnh đầm ấm, thân thương bên “đèn khuya, bóng nhỏ… nàng vá áo cho chồng” không được bao lâu, người lính chiến lại lên đường mang theo nỗi nhớ thương, lo lắng:
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê…
Dường như ở đây chàng trai đã dự cảm về cái chết. Cái chết đến với mình. Phải rồi! Vào nơi binh đao, đạn lửa, cái chết luôn cận kề. Điều đó không có gì lạ. Và chàng trai đón nhận nó với tâm trạng bình thản. Chàng chỉ thương người vợ bé bỏng mòn mỏi đợi trông ở quê nhà. Song, có một nghịch lý đã xảy ra trái với điều mà chàng trai đã dự cảm.
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Ở đây chàng trai chỉ nói về nghịch lý cuộc sống, người ở xã trường đối diện hàng ngày với bom đạn mà không chết, hậu phương tưởng thanh bình mà người con gái trẻ trung ấy đã vĩnh viễn đi xa. Tác giả không lý giải nguyên nhân của cái chết, dường như là bỏ qua trái với Vũ Cao:
Giặc giết em rồi dưới gốc thông
(Núi đôi).
Hay như Giang Nam
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Tác giả cũng không trực tiếp bày tỏ những cảm xúc “Mới đến cầu ao, tin sét đánh” (Vũ Cao) hay “Đau xé lòng anh, chết nửa con người” (Giang Nam) mà miêu tả nỗi đau của những người thân. Đó là hình ảnh:
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.
Là sự tưởng tượng.
- Ba người anh từ chiến trường
… Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
- Đứa em nhỏ lớn lên.
Ngỡ ngàng trông ảnh chị.
Không trực tiếp bày tỏ tình cảm, chàng trai trong bài thơ tưởng chừng như không cảm xúc. Song, chính bằng cách miêu tả nỗi đau của những người thân qua các câu thơ đầy hình ảnh và giàu sức gợi, chàng trai đã nói lên nỗi lòng của mình. Nỗi đau mất vợ ấy không mãnh liệt như Giang Nam, không ngỡ ngàng như Vũ Cao mà nỗi đau ấy cứ từ từ ngấm vào từng làn da thớ thịt. Không biểu hiện ra ngay từ giây phút đầu tiên mà gặm nhấm qua tháng năm. Không ai có thể cân đong nỗi đau nào nhiều hơn bởi lẽ đó là sự mất mát lớn lao, mất đi người yêu dấu, người ấp ôm trái tim, tình yêu của mình. Song, với Vũ Cao em là đồng chí, tình yêu gắn liền với tình đồng đội, cùng chung lý tưởng (Nhớ nhau, anh gọi: em, đồng chí). Em là sao trên mũ, là hoa thơm đỉnh núi. Người đọc dù sao vẫn có cảm giác nỗi đau ấy đã được điều khiển bằng lý trí, không trĩu nặng, đau nhưng không buồn. Cô bé hàng xóm của Giang Nam đã hóa thân vào quê hương “vì trong từng nắm đất, có một phần xương thị của em tôi”. Quê hương có chim, có bướm, có những kỷ niệm êm đềm… Nỗi đau dường như xoa dịu. Còn với riêng Hữu Loan, em là của riêng anh, là sự đớn đau không gì chia sẻ. Màu tím hoa sim xưa em từng yêu thích, mỗi chiều vẫn đồng hành cùng anh qua từng chiến trường:
Những đồi hoa sim trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Hoàng hôn vốn dĩ đã buồn, hoàng hôn ở chốn rừng hoang càng buồn hơn mà lại còn ngập tràn sắc tím… ở đây màu tím không còn là biểu tượng cho tình yêu thủy chung mà là sắc màu của biệt ly. Rừng hoang buồn tê tái trong nỗi chiều hành quân của người lính. Cánh rừng hoang nào mà không có hoa sim? Trông thấy hoa sim, nỗi đau thương lại trở về ngặm nhấm.
Nhìn áo rách rai,
Tôi hát
Trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu…)
Và người vợ lại trở về trong ký ức hoa sim…
MÀU TÍM HOA SIM
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi thay áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đêm khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường
Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn trước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
Trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu…)
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------
TIỂU LUẬN
CHUYÊN ĐỀ: TÂM LÝ HỌC SÁNG TẠO VĂN HỌC
Giáo viên : PGS.TS Trần Khánh Thành
Học viên thực hiện : Phạm Thị Hương
Lớp : CH Văn K51
Hà Nội, 10-2007
Ký ức hoa sim
Đi trên đường phố Hà Nội vào một ngày lễ dành cho phái đẹp, đường phố ngập tràn sắc màu của muôn hoa và nồng nàn hương hoa sữa cuối thu. Từ góc phố nhỏ, tôi chợt nghe câu hát “rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím, chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim…”. Chàng trai trong bài hát kể cho người tình của mình nghe về một tình yêu cảm động giữa một người lính chiến và cô gái yêu màu tím hoa sim. Họ đã làm đám cưới trước cuộc hành quân tiếp theo của người lính. Ở lại quê nhà, cô gái đã chết trong chờ đợi. Câu chuyện của bài hát đã đưa tôi đến với “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Ở đó ta cũng gặp một tình yêu dang dở, được viết lên bàng ký ức buồn thương của tác giả.
Theo suốt chiều dài của lịch sử, chiến tranh không còn là một điều gì xa lạ. Nó đã từng ám ảnh bao mái nhà, bao số phận và bao trang thơ. Nó đã từng cướp đi bao máu, nước mắt và hạnh phúc lứa đôi. Đất nước đau thương thì sự không trọn vẹn của hạnh phúc lứa đôi có gì đáng kể. Thế mà sao vẫn cứ thương đau? “Núi Đôi” của Vũ Cao, “Quê hương” của Giang Nam cùng Hữu Loan chung dòng cảm xúc ấy. Đó là những xúc cảm mãnh liệt khi nghe tin về cái chết bất ngờ của người mà tác giả thương yêu (có thể là vợ hoặc là người yêu), từ đó những kỷ niệm cũ cứ thế và về với nỗi buồn đau, thương tiếc. Nếu như Vũ Cao nhớ về người yêu đã khuất gắn liền với hình ảnh Núi Đôi ấp ôm “núi vẫn đây mà anh mất em”, Giang Nam như nhớ về “em” với nụ cười “khúc khích và ánh mắt đen tròn, thương thương quá đi thôi”. Thì Hữu Loan nhớ về người vợ gắn liền với sắc tím hoa sim. Hình ảnh Núi Đôi nồng nàn, hạnh phúc: nụ cười khúc khích và ánh mắt đen tròn gợi nhớ sự sáng trong êm đềm của tuổi thơ; sắc tím hoa sim sao gợi buồn đến thế? Có phải ngay tự sắc màu ấy đã nặng trĩu những ưu hoài?
Từ: “Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết”.
Tác giả nhớ về người vợ thân yêu của mình bắt đầu bằng hoàn cảnh riêng:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Lời thơ không kể, song ta vẫn cảm thấy dường như trong ký ức nhà thơ hiện lên hình ảnh người thiếu nữ ngày ngày vất vả thay anh trai, giúp mẹ chăm sóc, lo lắng cho những đứa em nhỏ. Có nghĩa là người con gái ấy, ấn tượng với nhà thơ đầu tiên đó là vẻ đẹp của sự đảm đang, chịu thương chịu khó. Từ hình ảnh người vợ bé nhó gánh trên vai bao trách nhiệm nặng nề, màu tím hoa sim cứ thế hiện về trong khắc khoải.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Nghĩa là vẫn với trang phục hàng ngày “áo nàng màu tím hoa sim” giản dị mà thủy chung. Sắc áo tím trong ngày cưới, nàng hiện lên trong mắt người chồng quân nhân vẻ đẹp của tình yêu, có lẽ vì thế chăng mà cả bài thơ chợt hé lên một nụ cười.
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Không phải là nụ cười “khúc khích” vừa thẹn thùng vừa tinh nghịch của cô bé trong bài thơ “Quê hương” (Giang Nam), “xinh xinh” vừa hiền lành mà như có chút gì bé bỏng, yếu đuối của tâm hồn đa cảm, môngm mơ “yêu hoa sim tím”.
Những ngày vui trọn vẹn cùng người vợ trẻ với cảnh đầm ấm, thân thương bên “đèn khuya, bóng nhỏ… nàng vá áo cho chồng” không được bao lâu, người lính chiến lại lên đường mang theo nỗi nhớ thương, lo lắng:
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê…
Dường như ở đây chàng trai đã dự cảm về cái chết. Cái chết đến với mình. Phải rồi! Vào nơi binh đao, đạn lửa, cái chết luôn cận kề. Điều đó không có gì lạ. Và chàng trai đón nhận nó với tâm trạng bình thản. Chàng chỉ thương người vợ bé bỏng mòn mỏi đợi trông ở quê nhà. Song, có một nghịch lý đã xảy ra trái với điều mà chàng trai đã dự cảm.
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Ở đây chàng trai chỉ nói về nghịch lý cuộc sống, người ở xã trường đối diện hàng ngày với bom đạn mà không chết, hậu phương tưởng thanh bình mà người con gái trẻ trung ấy đã vĩnh viễn đi xa. Tác giả không lý giải nguyên nhân của cái chết, dường như là bỏ qua trái với Vũ Cao:
Giặc giết em rồi dưới gốc thông
(Núi đôi).
Hay như Giang Nam
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Tác giả cũng không trực tiếp bày tỏ những cảm xúc “Mới đến cầu ao, tin sét đánh” (Vũ Cao) hay “Đau xé lòng anh, chết nửa con người” (Giang Nam) mà miêu tả nỗi đau của những người thân. Đó là hình ảnh:
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.
Là sự tưởng tượng.
- Ba người anh từ chiến trường
… Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
- Đứa em nhỏ lớn lên.
Ngỡ ngàng trông ảnh chị.
Không trực tiếp bày tỏ tình cảm, chàng trai trong bài thơ tưởng chừng như không cảm xúc. Song, chính bằng cách miêu tả nỗi đau của những người thân qua các câu thơ đầy hình ảnh và giàu sức gợi, chàng trai đã nói lên nỗi lòng của mình. Nỗi đau mất vợ ấy không mãnh liệt như Giang Nam, không ngỡ ngàng như Vũ Cao mà nỗi đau ấy cứ từ từ ngấm vào từng làn da thớ thịt. Không biểu hiện ra ngay từ giây phút đầu tiên mà gặm nhấm qua tháng năm. Không ai có thể cân đong nỗi đau nào nhiều hơn bởi lẽ đó là sự mất mát lớn lao, mất đi người yêu dấu, người ấp ôm trái tim, tình yêu của mình. Song, với Vũ Cao em là đồng chí, tình yêu gắn liền với tình đồng đội, cùng chung lý tưởng (Nhớ nhau, anh gọi: em, đồng chí). Em là sao trên mũ, là hoa thơm đỉnh núi. Người đọc dù sao vẫn có cảm giác nỗi đau ấy đã được điều khiển bằng lý trí, không trĩu nặng, đau nhưng không buồn. Cô bé hàng xóm của Giang Nam đã hóa thân vào quê hương “vì trong từng nắm đất, có một phần xương thị của em tôi”. Quê hương có chim, có bướm, có những kỷ niệm êm đềm… Nỗi đau dường như xoa dịu. Còn với riêng Hữu Loan, em là của riêng anh, là sự đớn đau không gì chia sẻ. Màu tím hoa sim xưa em từng yêu thích, mỗi chiều vẫn đồng hành cùng anh qua từng chiến trường:
Những đồi hoa sim trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Hoàng hôn vốn dĩ đã buồn, hoàng hôn ở chốn rừng hoang càng buồn hơn mà lại còn ngập tràn sắc tím… ở đây màu tím không còn là biểu tượng cho tình yêu thủy chung mà là sắc màu của biệt ly. Rừng hoang buồn tê tái trong nỗi chiều hành quân của người lính. Cánh rừng hoang nào mà không có hoa sim? Trông thấy hoa sim, nỗi đau thương lại trở về ngặm nhấm.
Nhìn áo rách rai,
Tôi hát
Trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu…)
Và người vợ lại trở về trong ký ức hoa sim…
MÀU TÍM HOA SIM
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi thay áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đêm khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường
Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn trước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
Trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu…)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHDOCS 5.doc