Đoàn kết thực sự để phát huy dân chủ thực sự, để khai thác và phát huy nội lực, để xây dựng cộng đồng dân cư của chúng ta ngày một phát triển; xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu chính đáng và hợp pháp; đường làng, ngõ phố phong quang sạch đẹp; không có tệ nạn xã hội, không có người vi phạm pháp luật, thực hành dân chủ và giữ gìn kỷ cương phép nước, cuộc sống của mọi người, mọi nhà ngày càng ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, ai cũng tham gia học tập, thôn xóm yên bình, môi trường xanh, sạch đẹp. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết nói chung và đoàn kết trong Đảng nói riêng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đại đoàn kết là sức mạnh vô địch để làm nên mọi thắng lợi. Để thực hiện đoàn kết toàn dân, phải có đảng tiên phong lãnh đạo và Đảng muốn đoàn kết được toàn dân trước hết phải đoàn kết từ trong Đảng. Đảng ta là tổ chức của những người tự nguyện hy sinh vì lý tưởng cao đẹp - độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh chính trị của Đảng là nền tảng bảo đảm sự đoàn kết trong Đảng. Là một Đảng cầm quyền, đòi hỏi phải có trí tuệ sáng suốt mới vạch đường lối đúng đắn cho cách mạng; đồng thời, trong Đảng phải có sự đoàn kết nhất trí cao để lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đó. Không có sự thống nhất về tư tưởng, về nhiệm vụ sẽ không có sự sáng suốt trong hành động; không đoàn kết sẽ không tạo được sức mạnh
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10417 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đoàn kết là sức mạnh”, đó là một chân lý giản đơn và dễ hiểu hầu như đất nước nào cũng nhắc tới. Kế thừa tư tưởng lớn đó của nhân loại, đặc biệt là thấm nhuần lời kêu gọi của VI.Lê -nin “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục cán bộ và nhân dân ta:
“Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công”.
Người đã trực tiếp xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc, tình đoàn kết quốc tế giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới. Trên bình diện này, có thể coi đại đoàn kết là một chiến lược lớn của cách mạng, chiến lược về tổ chức nhằm tập hợp lực lượng đến mức đông đảo nhất, rộng rãi nhất mọi tầng lớp nhân dân; thậm chí Người đã thuyết phục và thu phục đến từng dòng họ, từng con người vào mặt trận thống nhất của dân tộc. Đoàn kết còn thuộc phạm trù đạo đức, một tiêu chuẩn cần thiết của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt đối với người làm công tác lãnh đạo, công tác quản lý. Nó nói lên sức thuyết phục, sức lôi cuốn của người lãnh đạo đối với mọi người, đối với quần chúng làm cho quần chúng đồng tâm nhất trí với mình, tự nguyện góp sức mình vào sự nghiệp chung. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, là các thế hệ người Việt Nam đã liên tiếp đoàn kết cùng nhau đứng dậy chống ngoại xâm, mặc dù thất bại (do nhiều nguyên nhân chúng ta không thể đề cập ở đây) song đều nói lên truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc. Hồ Chí Minh một mặt thấy được những hạn chế của các phong trào này, mặt khác thấy rõ yêu cầu khách quan của sự đoàn kết thống nhất trên cơ sở có đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, khoa học. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển, tắm mình trong phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc, các nước tư bản, người rút ra những bài học kinh nghiệm đấu tranh không thể không có sự đoàn kết chặt chẽ của những người cùng khổ thành khối vững chắc. Đến với Lê - nin, đến với cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh nhận ra nhiều yếu tố, nhiều điều mới trong những người yêu chuộng hòa bình “Bôn - Sê – Vích”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy tấm gương đó ở V.I Lê -nin mà Người coi là “Người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta”. Hồ Chủ tịch viết: “Lê-nin không chỉ là một lãnh tụ, một người chỉ huy. Đó cũng là một người thầy có sức hấp dẫn, tính coi thường sự xa hoa, lòng ham mê công việc, đời sống trong sạch, sự giản dị và tâm hồn cao thượng của Người, làm cho quả tim của chúng tôi hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Nếu thiên tài và đạo đức của Lê -nin có sức hấp dẫn mọi người tập hợp quanh mình để tiến hành sự nghiệp cách mạng thì ở Hồ Chí Minh chúng ta càng thấy đậm nét hình ảnh đó. Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú ý kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ là hai nước đem lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp lực lượng. Đó là đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo … nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng như chủ trương “Liên Nga, thân cộng, ủng hộ công nông”; “hợp tác Quốc - Cộng” của Tôn Trung Sơn... Trí tuệ của Người, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người đã lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết quanh Người. Về phía Người, Người cũng coi việc đoàn kết với mọi người là một tiêu chuẩn về tư cách của một người cách mạng. Đúng như vậy, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” ngay từ bài đầu “Tư cách của một người kách mệnh” Người đã khuyên: “Tự mình phải - Cần kiệm - Hòa mà không tư”. “Hòa mà không tư” có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì một lợi ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích riêng, bởi vì Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. Đó là tấm gương đoàn kết chí công vô tư cao thượng và đúng đắn. Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người uyên thâm Nho học. Phải chăng “hòa mà không tư” gần với mệnh đề Nho giáo “Thân với mọi người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua” song được Người nâng lên ở tầm cao mới, đó là hướng sức mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người gọi là nghĩa lớn (đại nghĩa) đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì “mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng”. Chỉ có hướng sự đoàn kết vì đại nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng chính là hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ.... Đã từ lâu, rất nhiều cuộc chiến tranh chống lại quân xâm lược của nước ta. Từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đến Trần Hưng Đạo..., rồi đến cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lược cho thấy sự đoàn kết đã mang lại những thành công lớn lao. Phương Tây: Từ sự đoàn kết 13 bang của hợp chủng quốc chống lại thực dân Anh. Đến đại hồng quân Liên Xô trong thế chiến thứ 2.
Về Kinh tế: Sự đoàn kết của người Nhật từ một nước lạc hậu và thất bại trong chiến tranh, vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế như hiện nay.
Về Xã hội: Sự đoàn kết của nhân dân công cuộc đổi mới, xóa đói giảm nghèo cũng mang lại những thành công lớn.Ngược lại: Loạn 12 xứ quân, sự chia cắt 2 miền nam bắc làm kéo dài cuộc chiến tranh và sự suy thoái. Đến hiện nay, việc mất đoàn kết trong chính trị của Thái Lan đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển về kinh tế và an sinh xã hội của nước này….Riêng ở bản thân cuộc đời của Hồ Chí Minh ta thấy được người là một tấm gương sáng quên mình vì đại nghĩa “Cả cuộc đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân”. Nhờ gương cao nghĩa lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục được biết bao nhiêu người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đoàn kết với Người. Để đại đoàn kết với mọi người, Chủ tịch Hồ Chí Minh sống quan tâm đến mọi người và chăm lo lợi ích cho mọi người. Bác Hồ quan tâm đến lợi ích của mọi tầng lớp người, từ người cộng sự, người phục vụ gần gũi đến quảng đại quần chúng, từ miền xuôi đến miền ngược, mọi tôn giáo, mọi dân tộc. Người quan tâm đặc biệt đến lợi ích vật chất: dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Ngoài sự chăm lo lợi ích vật chất, Người còn quan tâm đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của mọi tầng lớp. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới lại quan tâm gửi thư cho các giới đồng bào tôn giáo nhân các ngày lễ bằng những lời lẽ vừa gần gũi vừa thân thương như Bác. Với các tăng ni phật tử, Người viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hi sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma”. nay với sự cố gắng của Với đồng bào Công giáo, Người viết: “Từ đồng bào, sản xuất sẽ ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui, việc đấu tranh giành thống nhất Tổ quốc, giữ gìn hòa bình càng chóng thắng lợi như bài hát sáng danh Thiên chúa trên các tầng giời, hòa bình cho mọi người lành dưới thế”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu cho chúng ta tấm gương đoàn kết rộng rãi bởi một lẽ rất giản đơn: Người muốn huy động tiềm năng của cả dân tộc vào sự nghiệp chung, Người luôn mong muốn thêm bạn bớt thù. Người tin ở tính hướng thiện của mọi người và trong bất cứ con người nào, Người cũng tìm thấy những nhân tố tốt đẹp đó. Tấm gương đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ Người có phương pháp xử lý đúng đắn những bất đồng, những cản trở cho sự đoàn kết. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết song không phải là kiểu đại đoàn kết một chiều. Người luôn luôn khuyên đoàn kết song phải đấu tranh, đấu tranh để đoàn kết. Cái lý trong đấu tranh của Người là “Nói có sách mách có chứng” nhìn nhận và đánh giá đúng sự thật, không quá lời, không cường điệu sai lầm khuyết điểm. Cái tình trong đấu tranh của Người là nói đúng lúc, đúng chỗ, với thái độ nhẹ nhàng, bao dung, thân ái, vừa phê bình lại vừa chỉ bảo cho người khác hướng sửa chữa sai lầm. Phương châm ứng xử của Người là “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”. Khoan dung và không chấp nhặt đối với những sai lầm có thể tha thứ, miễn sao giữ được những chân lý, những điều có tính nguyên tắc mà Người gọi là những điều “bất biến” trong câu nói “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Trong những năm cuối đời, Người nhắc nhở nhiều đến vấn đề tự phê bình và phê bình. Người phê phán bệnh nể nang trong quan hệ công tác bởi vì nể nang không thẳng thắn cũng là những nhân tố gây mất đoàn kết, thẳng thắn nhưng phương pháp và thái độ không đúng cũng không ích gì cho đoàn kết. Chính vì vậy, xử lý đúng đắn những bất đồng là một khía cạnh của tấm gương đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng ta phải học tập và noi theo. Thực trạng về vấn đề đoàn kết hiện nay, chúng ta có thể thấy rõ sự kế tục truyền thống vẻ vang của cha ông từ bao đời nay vẫn được giữ vững và phát huy từ Hội Phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay, trải qua lịch sử vẻ vang 81 năm (18/11/1930 - 18/11/2011). Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đã phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước của mọi người Việt Nam, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất thành một lực lượng hùng mạnh để đánh đuổi bọn thực dân đế quốc, giành lại độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do hạnh phúc cho đồng bào. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất đã không ngừng được củng cố, mở rộng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ và đã có những cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc, trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Kế tục truyền thống của Hội phản đế đồng minh (1930-1936) và Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đoàn kết vận động toàn dân tộc nổi dậy làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (ngày nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt nhân dân ta đã kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và không ngừng lớn mạnh trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam nhân dân ta đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Từ ngày nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên nhân dân tăng cường đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thách thức giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới, tháng 5 năm 1995 nhân kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Người, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động trong cả nước cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” nay là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Đây là cuộc vận động nhân dân rộng lớn trong cả nước của thời kỳ đổi mới có nội dung toàn diện, diễn ra trong thời gian dài. Những năm qua được sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự phối hợp tạo điều kiện của các cấp chính quyền, sự hưởng ứng tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cùng với các phong trào thi đua yêu nước khác, cuộc vận động đã đạt được những kết quả tốt đẹp trên các mặt góp phần từng bước nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững an ninh trật tự, ngày càng tạo ra các mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau giữa bà con nhân dân ở khu dân cư chúng ta. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 15 năm (2001-2015) để đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó trong lúc tình hình thế giới đang không ngừng thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi phải động viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo động lực mới đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải ra sức làm tròn nhiệm vụ nặng nề là tiếp tục củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; động viên nhân dân tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, phát huy mọi nguồn lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức động viên nhân dân tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh; xây dựng chỉnh đốn Đảng để Đảng thực sự xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân; mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường đoàn kết quốc tế, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của MTTQ Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ nêu trên. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, của việc xây dựng cộng đồng dân cư tự quản và thực hiện ngày càng tốt hơn 6 nội dung của cuộc vận động đòi hỏi bà con chúng ta phải bằng hành động thiết thực để tăng cường đoàn kết hơn nữa trong cộng đồng dân cư. Đoàn kết là sức mạnh vô địch:
"Một cây làm chẳng nên non.
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao".
Đoàn kết thực sự để phát huy dân chủ thực sự, để khai thác và phát huy nội lực, để xây dựng cộng đồng dân cư của chúng ta ngày một phát triển; xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu chính đáng và hợp pháp; đường làng, ngõ phố phong quang sạch đẹp; không có tệ nạn xã hội, không có người vi phạm pháp luật, thực hành dân chủ và giữ gìn kỷ cương phép nước, cuộc sống của mọi người, mọi nhà ngày càng ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, ai cũng tham gia học tập, thôn xóm yên bình, môi trường xanh, sạch đẹp. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết nói chung và đoàn kết trong Đảng nói riêng giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đại đoàn kết là sức mạnh vô địch để làm nên mọi thắng lợi. Để thực hiện đoàn kết toàn dân, phải có đảng tiên phong lãnh đạo và Đảng muốn đoàn kết được toàn dân trước hết phải đoàn kết từ trong Đảng. Đảng ta là tổ chức của những người tự nguyện hy sinh vì lý tưởng cao đẹp - độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh chính trị của Đảng là nền tảng bảo đảm sự đoàn kết trong Đảng. Là một Đảng cầm quyền, đòi hỏi phải có trí tuệ sáng suốt mới vạch đường lối đúng đắn cho cách mạng; đồng thời, trong Đảng phải có sự đoàn kết nhất trí cao để lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối đó. Không có sự thống nhất về tư tưởng, về nhiệm vụ sẽ không có sự sáng suốt trong hành động; không đoàn kết sẽ không tạo được sức mạnh, để dẫn dắt quần chúng thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Nếu trong nội bộ không có sự thống nhất, nhất định dẫn tới năng lực lãnh đạo bị suy yếu. Chỉ có sự đoàn kết nhất trí cao, có tâm, có trí tuệ lớn mới có đường lối đúng đắn, sáng tạo. Chỉ có tinh thần đoàn kết nhất trí cao của mỗi đảng viên, từng tổ chức đảng, trên cơ sở thống nhất cao về chủ trương, đường lối của Đảng, mới đưa cách mạng vượt qua được những tình huống gay go, ác liệt và hiểm nghèo. Bí quyết của tinh thần đoàn kết đó nằm trong mục tiêu lý tưởng của Đảng và sự chỉ dẫn của Bác Hồ kính yêu: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Có thể nói, nhờ có đoàn kết nhất trí cao, Đảng ta đã vượt qua giai đoạn cực kỳ khó khăn, nhất là ở thời kỳ đen tối nhất, khi chưa giành được chính quyền. Đó là một kỳ công lớn của Đảng. Đảng đã thống nhất được muôn triệu trái tim, khối óc của cả dân tộc dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành những trọng trách của cách mạng, chúng ta cần giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở sự thống nhất hành động giữa Đảng và Nhà nước với mục tiêu tất cả là của dân, do dân và vì dân... Các tổ chức, cá nhân trong Đảng, Nhà nước đều phải hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Đó là cái “gốc”, là mục tiêu tạo nên sự đoàn kết trong Đảng và giữa Đảng với Nhà nước. Chỉ có đoàn kết Đảng mới tồn tại, phát triển và nêu gương đại đoàn kết toàn dân tộc, hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước. Có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng vừa nhằm xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh, vừa góp phần làm nên sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thế giới. Đảng ta phải là một nhân tố tích cực trong việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Thông qua đoàn kết quốc tế, Đảng ta càng lớn mạnh không ngừng. Tất nhiên, trong khi thực hiện đoàn kết quốc tế, phải trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh còn dặn thêm điều rất quan trọng là, phải có lý có tình. Đó là nét rất sáng tạo và rất cách mạng của Người về vấn đề đoàn kết. Bởi lẽ, nếu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa quốc tế vô sản là những nguyên tắc chung, thì cái lý, cái tình mà Người nêu ra và nhấn mạnh chính là nét sáng tạo rất riêng của Đảng ta. Có thể hiểu đó là truyền thống giá trị văn hóa của dân tộc trong hợp tác quốc tế. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập thế giới, việc giữ vững bản sắc dân tộc, bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền, trở nên đặc biệt quan trọng, chúng ta càng thấy tính đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế. Như vậy, rõ ràng đoàn kết trong Đảng nói riêng và đại đoàn kết nói chung trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất rộng lớn; đồng thời, bao quát thực tiễn rất phong phú. Chỉ có thực hiện tốt điều đó mới thực sự góp phần làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, tạo nên sức mạnh mới của Đảng lãnh đạo thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh….
Tiếp theo,khi nói về sự đoàn kết trong học sinh, sinh viên, đoàn kết trong trường lớp. Trước hết, cần thấy thực trạng của đoàn kết trong học sinh, sinh viên hiện nay: thực tế cho thấy, đa số sinh viên đều có quan điểm đúng đắn về vấn đề đoàn kết và biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay có hai hiện tượng đang xảy ra: Thứ nhất, một bộ phận sinh viên chưa có quan điểm đúng đắn về đoàn kết như: “đoàn kết một chiều, không gắn với đấu tranh thể hiện ở việc che giấu hay không phê phán cái xấu, cái thiếu văn minh của nhau, thi hộ, làm bài tập hộ, học hộ...” Thứ hai, một bộ phận khác thiếu tinh thần đoàn kết để kẻ xấu lấy đồ của bạn bè, đánh bạn mà không có phản ứng gì, thậm chí ngay trong phạm vi lớp học cũng mâu thuẫn, cãi và đánh lộn nhau…Từ thực tiễn này, việc giảng dạy tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh cần phải giúp cho sinh viên hiểu và thể hiện bằng những hành động cụ thể: Giúp cho sinh viên thực sự thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng khối đoàn kết trong lớp, trong khoa và trong trường. Cần có quan niệm đúng đắn về đoàn kết. Đoàn kết luôn đi liền với đấu tranh, biết tự phê bình và phê bình nhau để tăng cường đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong học tập và cuộc sống. Đoàn kết là phải biết yêu thương giúp đỡ nhau, phải luôn dũng cảm bảo vệ nhau trước những hành động của kẻ xấu, kẻ ác. Biết phát huy tinh thần của tập thể trong mọi hoạt động của lớp, của khoa và của Trường. Muốn đoàn kết chặt chẽ thì cần tôn trọng những quan điểm riêng của từng người, biết gác lại những bất đồng, phát huy tương đồng và luôn biết hy sinh cái tôi cá nhân mà vì tập thể với tinh thần “mình vì mọi người”.
T
óm lại, đoàn kết với nhau là khi nhiều người cùng nhau kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung, đặt lợi ích của tập thể lên trước để đạt tói thành công. Bác Hồ cũng đã từng nói rằng :
‘‘Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công thành công đại thành công’’
Lời dạy của Bác Hồ đi sâu vào trong tim mỗi người chúng ta và như muốn nói rằng khi ta cùng nhau đoàn kết lại thì sẽ thành một khối cực kì vững chắc mà khó có gì có thể lay chuyển được. Và cùng nhau đoàn kết thì ta sẽ cùng nhau thành công trong mọi việc, cho dù đó là việc nhỏ hay lớn. Bác đã nhắc chúng ta hãy biết phát huy tinh thần đoàn kết. Đoàn kết giúp ta vượt qua nhiều chông gai thử thách. Mỗi người chúng ta dù có là giỏi đến mấy, nhưng nếu như làm mọi việc một mình thì cũng khó có thể vượt lên cả một nhóm người dù không giỏi nhưng họ biết đoàn kết lại để bù đắp những khuyết điểm của nhau bằng các ưu điểm vượt trội. Ta cứ hãy coi những con kiến nhỏ bé kia, chỉ một con kiến không thể làm nên điều gì to lớn, nhưng khi cả đàn kiến cùng đoàn kết lại, thì cũng có thể làm vỡ một con đê. Điều đó lại càng chứng minh thêm về sức mạnh của tinh thần đòan kết. Sức mạnh này khó gì có thể phá vỡ được. Hay như câu chuyện bó đũa của người cha và những đứa con kia cho ta thấy khi không đoàn kết, chỉ nghĩ đến bản thân thì ta sẽ là một cá nhân đơn độc riêng lẻ như một chiếc đũa kia, rất dễ bị bẻ gãy, bị quật ngã. Nhưng khi đoàn kết lại thành một ‘‘bó đũa’’ vững chắc thì có mạnh đến mấy cũng khó lòng bẻ gãy được chúng. Ông cha ta ngày xưa khi dựng nước, giữ nước cũng đã nhờ vào sức mạnh của chính tinh thần đoàn kết. Đâu chỉ có lãnh đạo mới là người xây dựng và giữ được nước, cần phaải có sự kết hợp của nhân dân, của mọi người xung quanh cùng đứng lên xây dựng và giữ gìn nước nhà trong thời kì khó khăn. Từ trong gia đình cho đến xã hội, đoàn kết thành một khối đặc và vững chắc, cùng đồng tâm hiệp lực giúp đỡ nhau, tạo nên sức mạnh lớn lao để cùng nhau chiến đấu. Và nhờ đó mà bao nhiêu trang vàng lịch sử đã được dựng lên một cách vẻ vang, tự hào và còn lưu truyền mãi cho đến tận bây giờ. Nhưng bên cạnh tinh thần đoàn kết ấy, có những có nhân chỉ biết nghĩ cho mình, làm nứt nẻ tinh thần đồng đội, chỉ vì quá tự cao, chủ quan mà chỉ muốn hoạt động một mình hoặc chỉ muốn hoạt động vì mình, gây khó xử, xích mích, nứt nẻ tinh thần đoàn kết và phá vỡ sự đoàn kết chỉ vì sự ích kỉ của mình để rồi sẽ nhận lấy thất bại.Vì vậy chúng ta hãy cố gắng tự mỗi người phát huy tinh thần đoàn kết, dù là một cử chỉ nhỏ, hành động nhỏ để góp phần tạo nên đoàn kết nhưng rồi những hành động ấy sẽ lớn dần theo thời gian và mang lại thành công cho chính chúng ta, như những hoạt động thuyết trình ở lớp, cùng nhau học tập, tham gia vào các câu lạc bộ trường lớp, cùng nhau phụ giúp làm việc khi ở nhà cũng như trong xã hội. ‘‘Cho nhiều hơn nhận’’, đặt lợi ích của mọi người lên trên sẽ giúp ta có được tinh thần đoán kết tốt và giúp ta thành công. Tinh thần đoàn kết là một sức mạnh đi đến thành công, là một tính tốt mà mỗi người chúng ta nên có, chúng ta hãy cố gắng trân trọng, gìn giữ và phát huy tinh thần đoàn kết trong học tập, gia đình cũng như xã hội để xây dựng đất nước ngày một tốt đẹp, giàu có hơn…
Đề ra một số biện pháp đoàn kết của lớp XD DD&CN k4/1
N
ăm nay là năm đầu tiên tôi bước vào cánh cửa ĐH, CĐ cũng như là năm đầu tiên tôi phải sống tự lập một mình, đối với tôi tất cả mọi điều đều thật mới mẻ, tất cả điều ấy thật sự rất hoàn mỹ, nhưng chỉ có một việc mà đã làm tôi rất buồn, và không được vui đó là về sự đoàn kết trong lớp của tôi. Cũng là một thành viên trong lớp, tôi đã luôn tự cố gắng, luôn giúp đỡ các bạn trong việc học cũng như cuộc sống ngoài giờ. Nhưng ai biết được đằng sau những nụ cười ánh mắt kia là cả một “bầu trời chiến sự”. Lớp tôi chơi theo từng nhóm, theo từng khu vực đấu dá lẫn nhau và tất nhiên việc thống nhất và đoàn kết giữa các bạn là điều không thể xảy ra, tất cả mọi người không hề có sự đoàn kết toàn diện. Nhất là những bạn ưa thích làm nỗi, chỉ thích quậy phá trong giờ học và hình như trong lớp cũng chẳng có ai thật lòng đối tốt với ai cả…
Theo nhận xét chung của tôi thì chắc hẳn sẽ có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không đoàn kết. Thứ nhất, là tất cả các bạn đều là những người mới quen nên còn khá lạ lẫm. Thứ hai, có khá nhiều bạn trong lớp ít nói và tỏ ra ít hòa đồng với mọi người, thường thì cái gì cũng một mình hết, do đó dẫn đến nhiều lúc không khí trong lớp trở nên buồn chán. Nguyên nhân thứ ba cũng không kém đó là, do ngay từ đầu năm vào lớp các bạn đã tự chia năm sẽ bảy ra mà chơi theo nhóm riêng, đến đầu kỳ II khi trường tách lớp thì sự không đoàn kết thể hiện ngày còn rõ hơn (Điển hình là sự phân chia lớp ở nữa lớp dưới bên trái, nữa lớp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc (2).doc