Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

PHỤ LỤC

Phần A. MỞ ĐẦU 1

1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ: 1

1.2 MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU 1

1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2

1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2

1.5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2

1.6 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2

Phần B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN 3

1.TRƯỚC KHI ĐI VÀO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG TA HÃY QUAN TÂM LÀM RÕ NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NẮM ĐƯỢC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN TỘC 3

2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC: 4

2.1 Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin 4

2.2 Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện các nước thuộc địa 5

2.3 Mục tiêu của cách mạng giảiphóng dân tộc 6

2.3.1 Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa 6

2.3.2 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc 7

2.4 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI PHẢI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN 7

2.5 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI PHAI DO ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO 8

2.6 Lực lượng của cách mạng bao gồm toàn dân tộc. 9

2.7 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI ĐƯỢC TIẾN HÀNH CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO VÀ CÓ KHẢ NĂNG GIÀNH THẮNG LỢI TRƯỚC CÁCH MẠNG VÔ SẢN Ở CHÍNH QUỐC 9

Phần C: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 13

1.KẾT LUẬN 13

2.VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI 14

2.1 Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc 15

2.2 Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp 15

2.3 chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam 15

 

 

 

 

 

 

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 57591 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n người. Yêu cầu cao hơn đó là trình bày rõ ràng mạch lạc để nguwoif khác có thể nhận thức được đây là luận điểm sáng tạo, là sự phát triển mà Hồ Chí Minh được minh chứng bằng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam từ đó đóng góp thêm vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mac Lênin. 1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU : Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, tiến đến giải phóng giai cấp, giải phóng con người hệ tư tưởng quan trọng, cơ bản cũng là chủ đạo trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến: độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. 1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Tiểu luận được dựa trên phương pháp duy vật biện chứng,phương pháp trừu tượng hóa khoa học,phương pháp thống kê, logic, lịch sử. Cơ sơ phương pháp luận: .Bảo đảm sự thống nhất, nguyên tắc tính đảng, và tính khoa học .Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền thực tiễn .Quan điểm lịch sử cụ thể .Quan điểm toàn diện và hệ thống .Quan điểm kế thừa và phát triển .Kết hợp nghiên cứu tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hổ Chí Minh. Các phương pháp cụ thể: .Vận dụng các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn, lý luận chính trị để nghiên cứu toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh như mỗi tác phẩm riêng của Người. .Các phương pháp cụ thể thường áp dụng như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… việc vận dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ thể phải căn cứ vào nội dung. . 1.5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Tiểu luận được nghiên cứu trong hơn một nửa thời gian học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, tại trường ĐH Công Nghiệp TPHCM. Nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc để hiểu rõ hơn luận điểm này trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, và luận điểm này đóng góp như thế nào đối với kho tàng lý luận Chủ nghĩa Mac Lênin. 1.6 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Sau khi nghiên cứu tiểu luận, chúng em rút ra được nhũng vấn đề: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có giải phóng dân tộc mới có được giai cấp, giải phóng được con người, cũng chỉ đạt được khi các giai cấp và mỗi con người đều được giải phóng thì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mới hoàn toàn triệt để. Đó cũng là lý luận được minh chứng bằng thực tế bằng chiến thắng của cách mạng giải phóng Việt Nam Trong thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đã tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, từng bước thực hiện việc giải phóng giai cấp và con người. Nhân loại cũng đã tiến từng bước trên con đường giải phóng. Tuy Nhiên, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vẫn là mục tiêu phấn đẫu của tất cả các dân tộc trong thế kỷ XX. Và có thể nói sự nghiệp tiếp tục đổi mới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh do Đại hội IX nêu lên là sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, thời kỳ mới. Phần B. NỘI DUNG TIỂU LUẬN 1.TRƯỚC KHI ĐI VÀO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG TA HÃY QUAN TÂM LÀM RÕ NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NẮM ĐƯỢC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN TỘC: Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc Khái niệm: Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. Quan điểm của chủ nghĩa Mác:Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học. Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh – là vấn đề dân tộc thuộc địa “Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập”. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trích "Tuyên Ngôn Độc Lập" Bác Hồ đọc tại Quảng trường Ba đình ngày 02/09/1945. VIDEOç(ctrl+click) Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Độc lập hoàn toàn và thật sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Trong nền độc lập, mọi người đều được ấm no, tự do, hạnh phúc. Độc lập thật sự phải gắn với hoà bình thật sự. “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình…kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của đất nước. Chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và sự thức tỉnh ý thức dân tộc. “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản…”, đó là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do đó, “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH…”. “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội”. Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. “Phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC: 2.1 Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin Chủ nghĩa Mác-Leenin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương pháp đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Những vấn đề trên đây đã được các nàh kinh điển của giai cấp vô sản chỉ ra từ rất sớm. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ăngghen không chỉ luận giải vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người cũng được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Tuy nhiên do cả hai ông đều sống ở Tây Âu nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển tới trình đọ cao nên trước hết các ông nhấn mạnh vấn đề giải phóng giai cấp, Mác và Ăngghen đã viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”.Mác và Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã trực tiếp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc. Trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Một trong những đặc điểm cơ bản là xâm chiếm thuộc địa, một số nước đế quốc biến 70% dân số thế giới thành thuộc địa, Lênin đã kế tục và phát triển sự nghiệp của Mác, Ăngghen khi thành lập Quốc tế I và Quốc tế II đại diện cho giai cấp công nhân, cho phù hợp với tình hình mới, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập đại diện cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Tuy nhiên, trong công cuộc giải phóng Lênin vẫn cho rằng trước hết phải giải phóng giai cấp công nhân. 2.2 Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện các nước thuộc địa. VIDEOç(CTRL+CLICK) Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên cơ sở châu Âu mà châu Âu thì chưa phải là toàn nhân loại. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác, bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, cần: “ Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông, trong đó có Việt Nam, suốt hơn 50 năm đầu thế kỷ XX là vấn đề dân tộc, thuộc địa. Do đó, nếu ở phương Tây, các nhà kinh điển macsxit cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tuy có liên quan mật thiết với nhau nhưng ưu tiên giải phóng giai cấp công nhân thì Hồ Chí Minh đối với phương Đông, trong đó có Việt Nam giải phóng dân tộc là nhiêm vụ trên hết, trước hết. Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng giai cấp, gải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và giai cấp thì đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thì trước hết là lợi ích giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề lướn về lý luận và thực tiễn trước kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp nói riêng. Đay là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua. Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người giữ vai trò quan trọng trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Báo Le Paria (Người cùng khổ) ngày 1-4-1922 Hồ Chí Minh viết: “Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người”. Trước khi đi gặp cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, Hồ Chí Minh vẫn nghĩ đến con người và sự nghiệp giải phóng con người. Thật sâu sắc và cảm động khi thấy những điều Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta trong Di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Như vậy đối với Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thì giải phóng dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Đó là sự trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. 2.3 Mục tiêu của cách mạng giảiphóng dân tộc: 2.3.1 Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước nên có chung số phận là người nô lệ mất nước. Mâu thuẫn co bản ở các nước phương Tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phương Đông là dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Do vậy “cuộc dấu tranh giai cấp không diễn ra giống như các nước phương Tây”. Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung. Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước đế quốc phản đối chiến tranh xâm lược, ủng hộ nhân dân các nươc thuộc địa đấu tranh giành độc lập. Yêu cầu bức thiết của nhân dân thuộc địa là độc lập dân tộc. Ở các nước thuộc địa, nông dân là nạn nhân chính bị boc lột bởi chủ nghĩa đế quốc. Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng luôn dặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Hay nói cách khác nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là: “Đấu tranh chống lại thực dân xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”. Tính chất của cách mạng thuộc địa là thực hiện cách mạng tư sản kiểu mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1951) do Hồ Chí Minh chủ trì, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm vụ bức thiết nhất”. Trong nhiều bài nói, bài viết Người khẳng định: “Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”, “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ xum họp một nhà”. 2.3.2 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cachsmnangj chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân. 5-1941 Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang đẫu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách mang Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng phải giải quyết một vấn đề cần thiết “dân tộc giải phóng”, vì vậy cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”, đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. VIDEOç(CTRL+CLICK) 2.4 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MUỐN THẮNG LỢI PHẢI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN. Rút ra từ bài học “xương máu” của các tiền bối. Tất cả các phong trào của ông cha diễn ra vô cùng anh dũng với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng cuối cùng cũng bị đàn áp dã man, nhận thấy con đường cứu nước của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rũ lòng thương”, con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến “thủy hử”. Chính vì thế mặc dù khâm phục tinh thần yêu nước, cứu nước của ông cha. Nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới. Cách mạng tư sản là không triệt để: hơn 10 năm bôn ba ở nước ngoài, tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn nhất là ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ. Người nhận thấy rằng cách mạng tư sản chỉ thay đổi giai cấp tư sản thay cho giai cấp thống trị phong kiến, quyền lực xã hội vẫn chỉ tập trung ở giai cấp tư sản chứ không thuộc về đại đa số tầng lớp nhân dân. Con đường giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh nhận ra khi thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.Là tấm gương sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Người viết: chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của Cộng sản và cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”,”… chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. 2.5 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI PHAI DO ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO. Muốn làm cách mạng, “trước hết phải làm cho dân giác ngộ…phải giảng giải, lý luận và chủ nghĩ cho dân hiểu”, “cách mệnh phải hiểu phong trào thế giới, bày sách lược cho dân… Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung thì phải có Đảng cách mệnh”. Trong tác phẩm đường cách mệnh, Người khẳng định: “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng Cộng sản việt năm là người lãnh đạo duy nhất: vì theo Hồ Chí Minh chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản xây dựng chủ nghĩa xã hội một xã hội không còn áp bức bất công, không còn giai cấp, giải phóng con người, con người được tự do hạnh phúc. 2.6 Lực lượng của cách mạng bao gồm toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức l”Để có cơ hội thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…” lCách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của dân tộc, “cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”. lLấy dân làm nguồn sức mạnh, “lấy dân làm gốc”, “có dân là có tất cả”, “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc lLực lượng toàn dân tộc cách mạng giải phóng dân tộc “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hoặc hai người”, Hồ Chí Minh phân tích: “…dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. lĐộng lực cách mạng: công nông “là gốc của cách mạng” nhận thức mới mẻ so với các nhà yêu nước trước đó. lBạn đồng minh của cách mạng: Tập hợp mọi tầng lớp nhân dân vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm phát huy sức mạng của dân tộc, “…học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh của công nông thôi”. Bác bỏ phiếu tại hội nghị tân trào 6-1-1946 2.7 CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI ĐƯỢC TIẾN HÀNH CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO VÀ CÓ KHẢ NĂNG GIÀNH THẮNG LỢI TRƯỚC CÁCH MẠNG VÔ SẢN Ở CHÍNH QUỐC. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động sáng tạo: Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền thì các nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc. “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở các xứ bản địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nàh máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho các đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân cách mạng của nó”, “…nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”. Các nước thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn: sẵn sàng đấu tranh chống giặc xâm lược, tinh thần cao hơn so với giai cấp vô sản ở chính quốc. “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. (Hồ Chí Minh gặp gỡ các đại biểu Châu Mỹ La Tinh) Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập 1919 Nguyễn Ái Quốc gởi đến hội nghị Véc Xây bản yêu sách gồm tám điểm, nhưng không được chấp nhận,Người nhận thấy cần phải tự lực tự cường. Công cuộc giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải phóng, vận dụng công thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. “Kháng chiến trường kì gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Quan hệ của cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. Cương lĩnh Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928) nêu: “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc . Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ thuộc địa, hoặc quan hệ chính-phụ “Chủ nghĩa tư bản là con đỉa hai vòi…” phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng thuộc địa. Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh đã nêu: “cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước…”. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quân trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỉ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng bạo lực lQuan điểm về bạo lực cách mạng: Bạo lực cách mạng: Bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền. Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng Từng bước xây dựng lực lượng vũ trang trên nền tảng lực lượng chính trị quàn chúng Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. (Hồ Chí Minh cùng các đại biểu chiến sĩ) lTư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tương nhân đạo và hòa bình Hồ Chí Minh chủ trươngdùng bạo lực cách mạng song không tuyệt đối hóa bạo lực mà coi đây là một phương tiện để giành và giữ nền độc lập dân tộc. Vì vậy: Tận dụng mọi khả năng để giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, thương lượng, nhượng bộ có nguyên tắc. Phải tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng, không phân biệt ta và thù để tránh đổ máu “máu người Việt, máu người Pháp cũng đều quý như nhau”. Khi tiến hành chiến tranh vẫn tìm mọi cách vãn hồi hòa bình. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân đạo hoà bình. lHình thái bạo lực cách mạng: Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc: “…trường kỳ kháng chiến, địch nhất định thua, ta nhất định thắng… Thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau”. Tự lực cánh sinh là phương châm chiến lược quan trọng của bạo lực cách mạng. (Hồ Chí Minh – một vĩ nhân, nhân cách vĩ đại) Phần C: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN: lThắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, những thành tựu lớn lao và quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, cách mạng, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người lSáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc Nhận diện chính xác, thực chất vấn đề dân tộc thuộc địa. Tìm đúng con đường giải phóng dân tộc thuộc địa. Đề cao tinh thân tự lực tự cường dựa vào sức mạnh dân tộc giành thắng lợi. Quan niệm về tính chủ động và khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. lÝ nghĩa của việc học tập: Thấy rõ vai trò to lớn, vĩ đại của Hồ Chí Minh và hệ tư tưởng của Người trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhận thức đúng sức mạnh của dân tộc, củng cố niềm tự hào, tự tôn dân tộc, từ đó có những đóng góp thiết thực, hiệu quả trong xây dựng, phát triển dân tộc giàu mạnh phồn vinh. 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI. Chúng ta cần phải nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữu dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên bước thắng lợi mới. 2.1 Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát huy tối đa nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, đất đai, tài nguyên, vốn liếng… nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là nguồn lực con người. Chống lại sự phụ thuộc nước ngoài, diễn biến hòa bình, nâng tầm ảnh hưởng Việt Nam trên trường quốc tế. Giáo dục hệ tư tưởng Hồ Chí Minh sâu trong lòng dân tộc, giáo dục truyền thống dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 2.2 Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp. Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng người luôn đứng vững trên lập trường giai cấp để n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc.doc
Tài liệu liên quan