Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, xuất hiện nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3802 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Người đã từng nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng…, lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp, cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định Cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng”. Qua đó, có thể thấy Người đã chỉ ra những nguồn sức mạnh của chúng ta. Bác tin tưởng vào khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam, sự ủng hộ của nhân dân thế giới, tư tưởng, phương hướng đúng đắn của Cách mạng Việt Nam và khẳng định sự thành công của Cách mạng nước ta. Nhìn vào quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đặc biệt là qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ta thấy hoàn toàn có cơ sở để tin vào điều ấy, và tư tưởng của Bác vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa trong thời đại ngày nay.
Phân tích luận điểm
Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hìnhthành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn Cách mạng.
Cơ sở hình thành của khối đoàn kết dân tộc
Khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam, như Bác đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam,chúng làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Chúng là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nướcvà giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng làvtinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Quan điểm về khối đại đoàn kết dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng cách mạng là sự nghiệp quần chúng, nhân dân là người sang tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. Nếu không có sự đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân và giai cấp đi tiên phong là giai cấp vô sản thì cách mạng không thể thành công.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Những kinh nghiệm thành công và thất bại của Cách mạng Việt Nam và thế giới
Các cuộc cách mạng trên thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rông lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”.
Đặc biệt từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường của Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này mang lại, nhất là bài học cho sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng. Điều này giúp Người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc cách mạng triệt để để vận dụng vào con đường cách mạng Việt Nam sau này.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Nhưng các cuộc cách mạng trong thời kì đầu chống Pháp lại chưa tận dụng được sức mạnh ấy. Phong trào Cần vương và các cuộc kháng chiến diễn ra nhỏ lẻ và chưa chú ý đến lực lượng giai cấp vô sản- lực lượng nòng cốt của cách mạng sau này, vì thế đã không thể tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân.
Từ đó, Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những mặt hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Đây cũng chính là lí do, là điểm xuất phát để Người ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng.
Khối đại đoàn kết dân tộc đã thực sự khẳng định được vai trò quan trọng nhất quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.Tiêu biểu trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Mặt trận Việt Minh, Quốc dân Ðại hội, Chính phủ lâm thời là biểu hiện thành công của sự tập hợp mọi lực lượng có thể hợp tác vì sự nghiệp tối cao của dân tộc. Ðó là sự phát triển mới về sức mạnh chính trị của Việt Nam, thể hiện Ðảng đã hòa với dân tộc, trở thành dân tộc .
Sự ủng hộ của nhân dân thế giới
Tư tưởng đoàn kết quốc tế là tư tưởng lớn và rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tháng 6-1911, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Khác với mục đích "cầu viện" dựa vào sự giúp đỡ nước ngoài để đánh Pháp giành độc lập cho dân tộc như Phan Bội Châu và một số nhà yêu nước khác. Với Hồ Chí Minh, như Người đã nói: "Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta". Như vậy là không phải với mục đích "cầu viện" mà là trên cơ sở nhận thức được thời đại mới được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, là quá trình vận động kiểm nghiệm gần 10 năm, bằng thiên tài trí tuệ của mình, vượt qua sự hạn chế của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng đương thời, Người đã sớm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới đưa nhân dân ta đi đúng quỹ đạo của thời đại. Người chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"; xác định rõ các mối quan hệ mới của cách mạng Việt Nam: quan hệ với cách mạng vô sản, quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc.Theo Người, muốn thực hiện đoàn kết quốc tế điều đầu tiên là phải xác lập vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Mỗi một quốc gia, dân tộc không thể phát triển được nếu như không mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài. Vậy muốn quan hệ được trước hết phải làm cho thế giới hiểu biết Việt Nam. Vì lúc này, thực dân Pháp đã bưng bít, xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Bác đã đến cả các nước tư bản và các nước thuộc địa. Người đã nhìn thấy và hiểu rõ ràng chân lí: ở đâu, dù ở các nước thuộc địa, phụ thuộc hay chính quốc, những người lao động đều bị bóc lột, áp bức nặng nề, ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác. Người nêu ra: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản". Đây là kết luận cực kì quan trọng, khởi đầu cho tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh – đoàn kết với những người cần lao trên thế giới.
Nhận thức đúng đắn thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới; cách mạng Việt Nam chỉ thắng lợi một khi nó hòa chung vào làn gió thời đại, hòa chung vào dòng chảy tiến trình phát triển của nhân loại. Cách mạng Việt Nam phải có trách nhiệm và bước phát triển chung của nhân loại. Muốn góp phần vào bước tiến của cách mạng thế giới, cách mạng mỗi nước nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải hoàn thành tốt những yêu cầu của cách mạng nước mình. Việc kết hợp giữa dân tộc và quốc tế trước hết là phục vụ mục tiêu độc lập tự do cho Tổ quốc.
Vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Quan điểm, đường lối của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về lòng yêu nước thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốcvề đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Xuât phát từ những tư tưởng chỉ đường ấy, Đảng và Nhà nước đã có những định hướng về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong bối cảnh hiện nay.
Về vấn đề đoàn kết dân tộc
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, xuất hiện nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra trong những điều kiện mới, với nội dung giai cấp và nội dung dân tộc gắn kết với nhau bằng những hình thức mới.
Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái để giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Ngoài ra, vấn đề đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo cũng là vấn đề quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. Đảng và Nhà nước đã đề ra những chính sách hỗ trợ phát triển dân tộc, chính sách tự do tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật quy định để tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, chống lại các thế lực thù địch.
Về vấn đề đoàn kết quốc tế
Đảng ta đã đề ra chủ trương phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt Nam: "Trong khi tuyên truyền cái khấu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp". Đồng thời, Đảng cũng đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đề cao vấn đoàn kết quốc tế chính là sự thể hiện việc kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới. Vấn đề đoàn kêt quốc tế cũng đồng thời là một động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Thực trạng tại nước ta hiện nay
Về vấn đề đoàn kết dân tộc
Hiện nay, nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so vớicác nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kếthợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.
Mặt khác, việt nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội để phát triển của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội lực là hết sức quan trọng. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa việt nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa,phát huy hơn nữa nội lực.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suythoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã vàđang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước,gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọicách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta dođảng cộng sản việt nam lãnh đạo.Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Về vấn đề đoàn kết quốc tế
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, 40 năm qua, Đảng ta luôn phát huy chủ nghĩa quốc tế trong sáng, cao cả, thủy chung, làm hết sức mình để góp phần quan trọng xây dựng tình đoàn kết giữa các đảng cộng sản và công nhân, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; đồng thời, tăng cường xây dựng và phát triển các quan hệ quốc tế trong tình hình mới, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại “độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nước ta đã chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế quốc tế trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, các quan hệ chính trị - kinh tế đan xen.
Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và toàn cầu; thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và cả 5 nước ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của hàng trăm tổ chức quốc tế; có quan hệ thương mại với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hóa với nước ngoài; gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thiết lập được quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, như: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Bên cạnh đó, tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; trở thànhỦy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc; tham gia giải quyết những vấn đề của khu vực và thế giới; xác định quan hệ ổn định với các nước láng giềng, nước lớn; giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan... Những thành tựu đó đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực; tăng cường sức mạnh quốc gia để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Cục diện thế giới tiếp tục có những chuyển biến quan trọng với xu thế “đa cực” ngày càng rõ nét hơn. Sự tập hợp lực lượng quốc tế diễn ra phức tạp trong khuôn khổ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”; các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng trong xử lý những mối quan hệ quốc tế.
Kết thúc vấn đề
Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết dân tộc và hợp tác quốc tế đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Khi Việt Nam đang bước vào thời kì hội nhập và phát triển mạnh mẽ về kinh tế, đứng trước những tác động mạnh mẽ của cả trong nước và quốc tế, chúng ta càng cần có sự đồng thuận và đoàn kết toàn dân, sự hợp tác quốc tế để có thể vững bước trên con đường đã chon, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh về cả sức mạnh nội tại và thế lực trên trường quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112156.doc