Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liên với CNXH trong thực tiễn Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

A. LỜI MỞ ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 3

I. Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo 3

1. Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH 3

1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH 3

1.2 Mối quan hệ biện chứng của “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” 4

1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH qua các thời kỳ 5

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo 7

2.1. Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường 7

2.2 Những đổi mới và sáng tạo cách mạng của chủ tịch Hồ Chí minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam 9

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liên với CNXH trong thực tiễn Việt Nam hiện nay 12

C. KẾT LUẬN 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO 15

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2193 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liên với CNXH trong thực tiễn Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh nhân dân của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân…”. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm cho đến khi nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất, xây dựng CNXH, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn là ngọn đuốc soi sáng cho bao thế hệ dân tộc Việt Nam. Trong xu thế hội nhập toàn cầu tình hình chính trị quốc tế và trong nước có nhiều biến động phức tạp và nhạy cảm. Đảng và nhà nước ta vẫn kiên định lập trường và khẳng định chủ nghĩa Mac_Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và tiếp tục có ý nghĩa quyết định sự phát triển của cách mạng nước nhà. Xuyên suốt tư tưởng của Người là tư tưởng: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo”. Vì vậy trong bài diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo”. Dưới đây là bài phân tích và chứng minh nhận định trên cùng với thực tiễn Việt Nam về tư tưởng đó. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng bài viết không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, rất mong cô giáo và các bạn góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên B. NỘI DUNG I. Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo 1. Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH 1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH Trong lịch sử phát triển, nhân loại đã sản sinh ra biết bao giá trị cao đẹp, nhưng cũng gây ra không ít những hậu quả tai hại. Chủ nghĩa thực dân là một trong những hậu quả tai hại nhất của nhân loại, “Nó đem xiềng xích, áp bức, đói nghèo, ngu dốt, bệnh tật…đè nặng lên số phận các dân tộc nhược tiểu”. Vì vậy trong thế kỷ XX, việc giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là khát vọng cháy bỏng của dân tộc thuộc địa bị áp bức và Hồ Chí Minh là biểu tượng của khát vọng đó. Ở Việt Nam vào năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta. Để giữ ngai vàng của mình, triều đình nhà Nguyễn đã từng bước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp; và đến năm 1884 với hiệp ước Patonot ( 6/ 6 / 1884 ) Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Phát huy chủ nghĩa yêu nước và giá trị truyền thống Việt Nam, nhân dân ta từ Bắc chí Nam đã liên tục nổi dậy chống thực dân Pháp, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám ( miền Bắc ), Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng ( ở miền Trung ), và Trương Công Định, Nguyễn Trung Thực ( ở miền Nam ).Trong những thập niên đầu thế kỉ XX, có các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp như: Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Việt Nam Quang phục hội, khởi nghĩa Yên Bái…Tất cả các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh này đã gây ra cho thực dân Pháp những tổn thất, khó khăn nhất định nhưng cuối cùng đều thất bại chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngon cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh đã rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới. Trên con đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mac_Lênin Con đường mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản…”_Đó chính là con đường “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Con đường “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” của Hồ Chí Minh khác về cơ bản với con đường giải phóng dân tộc của những người đi trước. Con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phản ánh đúng yêu cầu, tất yếu của cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mac_Lênin gắn liền với tiến bộ xã hội nên nó là con đường duy nhất đúng đắn và tất yếu giành thắng lợi. 1.2 Mối quan hệ biện chứng của “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” + Độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, là tiền đề và điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là sự tồn tại và phát triển của dân tộc trong đó bảo đảm sự thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Người đã từng khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn; song chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Độc lập dân tộc gồm sự độc lập và tự chủ trong việc lựa chọn con đường phát triển và tự mình quyết định vận mệnh của dân tộc mình trong quan hệ hợp tác bình đẳng với các quốc gia, dân tộc khác; không lệ thuộc, phụ thuộc vào bất cứ nước nào, dân tộc nào”. Vì vậy độc lập dân tộc nhất thiết phải là độc lập về kinh tế và chính trị, đó là cơ sở bảo đảm cho độc lập về văn hóa, cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc khi tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với dân chủ, tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, được sung sướng và quyền tự do_đó là những quyền chính đáng và không ai có thể xâm phạm được”. Người đã chỉ rõ: “Nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Với những nội dung cơ bản như trên, độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt của cách mạng và trở thành tiền đề, điều kiện không thể thiếu để xây dựng CNXH. + CNXH là con đường bảo vệ một cách chắc chắn và phát triển có hiệu quả những thành tựu của độc lập dân tộc. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ. Như Hồ Chí Minh đã nói CNXH là một xã hội “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Với những đặc trưng như trên, CNXH không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả độc lập dân tộc mà về cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó. Hoàn toàn có thể nói rằng: “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” là chân lý không thể chối bỏ, không có độc lập dân tộc không thể có CNXH. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành công CNXH. CNXH là sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho độc lập dân tộc. 1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH qua các thời kỳ Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu. + Thời kỳ 1930 – 1945: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chính cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ Đảng chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội xã hội cộng sản”. Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Điều đó có nghĩa là, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN. + Thời kỳ 1945 – 1954: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được thể hiên cụ thể ở đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “kháng chiến đi đôi với kiến quốc”. Kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc còn kiến quốc để củng cố nhà nước dân chủ nhân dân xây dựng cơ sở đầu tiên của CNXH. + Thời kỳ 1954 – 1969: Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh có ba nhân tố cơ bản đảm bảo thắng lợi của đường lối “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” của cách mạng Việt Nam: một là, xây dựng một Đảng cộng sản ngày càng vững mạnh và luôn giữ vững tăng cường lãnh đạo của Đảng trong suốt quá trình cách mạng; hai là, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nông – tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; ba là, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Ba nhân tố trên tồn tại không biệt lập mà chúng luôn tác động thúc đẩy nhau tạo cơ sở vật chất và tinh thần, tạo ra động lực bảo đảm thắng lợi của “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và Đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm”. Như vậy trong tư tưởng, trong con người, trong sự nghiệp Hồ Chí Minh “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” đã trở thành động lực và mục tiêu của cách mạng. Suốt cuộc đời học tập, rèn luyện, phấn đấu hoạt động cách mạng của Người đã đi đến mục tiêu ấy_“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Lời nói này, ý chí này, tâm huyết này đã chứa đựng đầy đủ giá trị của “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ ra rằng khi nào chúng ta đứng vững trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, biết học tập có chọn lọc và cải biến kinh nghiệm của các nước, khi đó chúng ta thành công, nếu ngược lại là không tránh khỏi sai lầm và thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng chói về mặt đó. Suốt đời mình từ trẻ đến già, Hồ Chí Minh là con người của độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo, luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới và sáng tạo; đó là nét đặc sắc nhất của tinh thần Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh. 2.1. Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào sức mạnh dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, là tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lập, tự cường,…Người cho rằng, để đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam phải thực hiện đại đoàn kết dân tộc và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong đó cần nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính” đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới”. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức manh thời đại, bao giờ Hồ Chí Minh cũng tích cực và quan tâm đến phát huy sức mạnh của dân tộc, coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy được tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn nêu cao khẩu hiệu: “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người khác giúp cho, thì trước mình phải giúp lấy mình đã”. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. “Tự giải phóng” là tư tưởng, quan điểm lớn, xuyên suốt của Hồ Chí Minh. Trong lời kêu gọi gửi tới những người anh em ở các thuộc địa, người viết: “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của C. Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của anh em”. Hồ Chí Minh cho rằng, ngoài sức mạnh nội lực cần thiết bên trong, còn phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn và cần tranh thủ được sức mạnh thời đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh lịch sử phức tạp, đó là sự chia rẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới. Để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới, Đảng và Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thồng nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ cao nhất sự ủng hộ và giúp đỡ loại người tiến bộ, nhân dân ta đồng thời thực hiện nghĩa vụ cao cả của mình. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: “phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng như của ta… Người cùng một hội, một thuyền phải giúp đỡ lẫn nhau”. Người đặc biệt coi trọng xây dựng khối đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia – ba nước cùng cảnh ngộ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Nhờ tinh thần tự lực tự cường và sự giúp đỡ của quốc tế, Việt Nam đã giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc, song cũng bằng việc đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam đã góp phần quan trọng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, từng bước hạn chế và làm thất bại âm mưu gây chiến tranh thế giới của chúng, góp phần củng cố hòa bình và dân chủ trên thế giới, mở rộng và tăng cường lực lượng cho chủ nghĩa xã hội. 2.2 Những đổi mới và sáng tạo cách mạng của chủ tịch Hồ Chí minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam Nhìn lại quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chúng ta thấy, vị lãnh tụ của Đảng, của cách mạng Việt Nam luôn luôn thể hiện tinh thần của một nhà cách mạng sáng tạo. Dù ở đâu, vào thời điểm nào Hồ Chí Minh cũng luôn luôn nắm vững bản chất các sự kiện và các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, từ đó đưa ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử hợp lý nhất, sáng tạo nhất. + Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Vào cuối thế kỷ thứ XIX và những năm đấu thế kỷ XX, cả dân tộc Việt Nam bị đè nén bởi hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Không cam chịu làm nô lệ, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp đứng lên chống bọn đế quốc thực dân nhưng không thành công. Các sĩ phu yêu nước đều trăn trở về con đường giải phóng dân tộc, nhưng chỉ có Hồ Chí Minh đã hành động hết sức sáng tạo mang tính cách mạng, Người cho rằng, cần phải tìm hiểu về thế giới, về nước Pháp trước khi lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc mình. Vì vậy Người đã quyết định ra đi để tìm con đường giải phóng dân tộc, cuối cùng Hồ Chí Minh đã tìm đến được với chủ nghĩa Mác_ Lênin và nhận ra con đường tất yếu mà cách mạng Việt Nam phải đi để giải phóng cho dân tộc mình là tiến hành cách mạng vô sản giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Đây là kết quả quan trọng của tư duy sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cách mạng. Nó vượt ra khỏi tư duy chính trị của người Việt Nam đương thời và đến với ánh sáng của thời đại mới là chủ nghĩa Mac_ Lênin. + Sáng tạo trong chuẩn bị lực lượng tiên phong cho cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ quan điểm cho rằng, muốn có phong trào cách mạng phải có lực lượng cách mạng tiên phong cho nên ngay từ những năm đầu Người đã đào tạo, bồi dưỡng một thế hệ cách mạng đầu tiên là những thanh niên trẻ làm hạt nhân cho phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Đây là sự bắt đầu hết sức sáng tạo, vì Người đã nhìn thấy ở những người thanh niên trẻ này những triển vọng to lớn có thể tham gia vận động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Những học trò cách mạng đầu tiên của Người như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng, v.v. đã có những cống hiến rất xứng đáng cho phong trào cách mạng Việt Nam. Từ lớp thanh niên đầu tiên này, chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập với đường lối đúng đắn ngay từ đầu, đội quân cách mạng Việt Nam đã từng bước nhân lên, phát triển thành làn sóng cách mạng mạnh mẽ, nhấn chìm mọi lực lượng phản cách mạng, nhấn chìm mọi âm mưu xâm lược của các đế quốc, thực dân hùng mạnh như phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. + Sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp nhưng đồng thời cũng chỉ ra rằng nếu toàn dân Việt Nam đoàn kết đồng lòng và được sự lãnh đạo đúng đắn của một chính đảng cách mạng thì không kẻ thù nào có thể đè bẹp được dân tộc ta. Người nói: "Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử. Đó là sức mạnh của ý chí đoàn kết, sự hy sinh, lòng dũng cảm của nhân dân đã được phát huy cao độ và kẻ thù của chúng ta đã nếm mùi thất bại cay đắng khi chạm trán với đội quân cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và lãnh đạo. + Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ thiên tài của nước Việt Nam, mà còn là một danh nhân văn hoá kiệt xuất của thế giới, là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Theo Hồ Chí Minh, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản. Người đứng về phía những người bị áp bức, bóc lột để chống lại bọn áp bức bóc lột. Theo lôgic đó, những người vô sản toàn thế giới và các dân tộc thuộc địa đều là anh em và phải đoàn kết lại chống kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân. Người viết lời kêu gọi đồng bào ta trong cuộc chống Mỹ, cứu nước: "Chúng ta có chính nghĩa, chúng ta có sức mạnh đoàn kết của hàng chục triệu đồng bào, lại được sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Mỹ. Chúng ta nhất định thắng". Yêu nước thiết tha nhưng không sa vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Hồ Chí Minh tin rằng, nhân loại tiến bộ sẽ ủng hộ sự nghiệp của chúng ta, vì cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước của chúng ta là chính nghĩa. Sự thật là cả thế giới đã ủng hộ nhân dân Việt Nam. Chính vì biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại mà chúng ta đã làm nên những chiến công hiển hách, ghi vào lịch sử dân tộc những trang sủ hào hùng. "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX một sự kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc". Những sáng tạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hết sức phong phú và sinh động, cần phải có công trình khoa học lớn hơn, nghiên cứu một cách đầy đủ hơn và hệ thống hơn để khai thác như một di sản quý báu của dân tộc Việt Nam cho các thế hệ cách mạng tương lai kế thừa và phát triển. Trích Từ wWw.ueh.vn . II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liên với CNXH trong thực tiễn Việt Nam hiện nay Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ngày càng mở rộng và phát triển theo chiều sâu, những biến đổi trên thế giới ngày càng phức tạp, những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm sáng tỏ để tìm lời giải đáp thì việc gắn lý luận với thực tiễn càng trở nên quan trọng. Hiện nay, chúng ta đang triển khai sâu rộng công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện thị trường và tác động mạnh của quá trình toàn cầu hóa. Trước bối cảnh đó, hơn lúc nào hết chúng ta phải kiên định lập trường chủ nghĩa Mac_ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giương cao ngọn cờ “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Thứ nhất, phát huy chủ nghĩa yêu nước và giá trị truyền thống Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và định hướng XHCN. Trong điều kiện kinh tế thị trường và tác động mạnh của toàn cầu hóa, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết và cơ hội thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đạo hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đồng thời chỉ có trên cơ sở tự chủ được về kinh tế chúng ta mới có thể chủ động hội nhập có hiệu quả và bảo đảm được chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc. Ở đây “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tự lực tự cường và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải gắn liền với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên nguyên tắc độc lập tự chủ và định hướng XHCN, mà trước hết là độc lập tự chủ về đường lối chính sách, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Thứ hai, đồng thời với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải chủ động trong lĩnh vực giao lưu văn hóa với các nước để tiếp thu tri thức khoa học tiên tiến, tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác. Nên nhớ rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức hiện nay, không chủ động giao lưu văn hóa, khoa học thì sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu và tụt hậu về tri thức, về trí tuệ - đó là một trong những nguy cơ đáng sợ nhất. Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu cần tiếp nhận những tinh hoa của nhân loại và ngăn chặn mặt tiêu cực thâm nhập, đồng thời phát huy được những giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp mang bản sắc dân tộc mình. Đó chính là bản lĩnh ý thức tự chủ, cốt cách và tinh thần độc lập của dân tộc Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một cách sâu sắc. Thứ ba, để đảm bảo cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và chủ động giao lưu văn hóa đi đến thắng lợi, bảo vệ và phát huy được kết quả độc lập dân tộc, đồng thời từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội; chúng ta phải và nhất thiết phải phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong sự nghiệp đổi mới, tư tưởng “làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai” của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vân dụng một cách sáng tạo. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Hiện nay trước nguy cơ “diễn biến hòa bình” và trước luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” của một số thế lực, hơn lúc nào hết, chúng ta phải phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại, kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng CNXH. Trong đó cần quán triệt sâu sắc lời dạy của Hồ Chí Minh: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Vận dụng sáng tạo tư tưởng “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” và tinh thần “Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo” của Hồ Chí Minh trong bối cảnh kinh tế thị trường toàn cầu hóa và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hộ chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. C. KẾT LUẬN Hồ Chí Minh – lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, nhà văn hóa lớn của thế giới. Người không chỉ truyền bá, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà Người còn phát triển chủ nghĩa Mac_ Lênin lên một tầm cao mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac_ Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Qua bài viết ta càng thấy rõ được nhận định: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31676.doc
Tài liệu liên quan