Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phủ hợp, “chứ không phải nước nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau”. Vì vậy, ngay từ chính cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại hội nghị Trung ương VIII tháng 5-1941, Người đề ra chủ chương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ ấy không phải thuộc quyền riêng giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9511 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 năm bôn ba, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đăng trên báo L’Humanité, số ra ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1920, Người đã “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng…vui mừng đến phát khóc…” và sung sướng nói to “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước cứu dân và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.” Ở Người đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nhận thức được chỉ có CNXH mới có thể giải phóng được dân tộc đồng thời đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, lôgic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Người. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏ áp bức bóc lột và đi tới mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người, thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người luôn đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhưng không bao giờ tách rời nhiệm vụ đó với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mà còn nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, tạo cơ sở cho việc xây dựng CNXH ở nước ta.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH diễn ra trong suốt quá trình, trong từng giai đoạn của cách mạng, thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH, CNXH là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Bởi “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu CNXH, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ Quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.” Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “nếu được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” Và “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ.” Nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong dó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.” Người luôn coi vấn đề giải phóng dân tộc là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam, tuy nhiên bên cạnh việc giành độc lập thì Người luôn mong ước xây dựng thành công CNXH để đem lại hạnh phúc cho dân tộc. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng, Người luôn quan tâm đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng.
Sau cách mạng tháng 8, Người trực tiếp chỉ đạo công cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc đồng thời cũng là người soi đường chỉ lối cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói, gặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo thêm bạn, bớt thù, tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực trường kì kháng chiến. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, với niềm tin sắt đá vào thắng lợi của sức mạnh toàn dân, Người đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong khi đó, Người đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cán bộ, đấu tranh chống tệ quan liêu, mệnh lệnh, xây dựng đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phát động phong trào thi đua yêu nước. Người đề ra đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh.
Khi đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, Người vẫn giữ vững niềm tin độc lập dân tộc và luôn coi miền Nam là một phần của dân tộc Việt Nam. Người cho rằng: “đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Người luôn tâm niệm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất nước nhà, khi đó sẽ xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp hơn, to đẹp hơn, nhân dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho việc tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975, cũng như việc thực hiêni hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay và trong tương lai.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không phải là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất Tổ quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết được mâu thuẫn này cũng là giải quyết được mâu thuẫn của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như vậy, rõ ràng tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Vì vậy, CNXH là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, sau khi đã đạt được thắng lợi trong các mục tiêu căn bản. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử và của thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc vừa phản ánh mối quan hệ khắng khít giữa mục tiêu giải phóng giai cấp với giải phóng con người. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột, thiết lập một nhà nước của dân do dân vì dân, mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Theo người, sau khi giành được độc lập phải tiến lên xây dựng CNXH, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.
Xuất phát từ đặc điểm thực tiễn của xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, quá độ lên CNXH, nên trong quan niệm về CNXH của người không phải là những ý tưởng cao xa mà là những lợi ích rất cụ thể, thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về CNXH được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đI vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới CNXH. Người giải thích rõ: “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (...) Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là CNXH.”
Như vậy, tư tưởng về CNXH của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam và còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tất cả vì con người, do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội XHCN hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Người độc lập từ trong cách suy nghĩ, cách nói, cách làm, từ những việc bình thường nhất. Nói như vậy bởi, trong suốt cuộc đời học tập, nghiên cứu và hoạt động cách mạng, Người không bao giờ ỷ lại mà tự mình làm mọi việc, không ngừng vừa học tập vừa rèn luyện bản thân một cách hoàn toàn chủ động. Lời kêu gọi trong dịp 1000 ngày kháng chiến 10/6/1948, Người căn dặn: “Mỗi người dân phải hiểu, có tự lập mới có độc lập, có tự cường mới có tự do.” Tư tưởng tự lực tự cường thể hiện nhất quán, rõ nét, xuyên suốt trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người, từ việc một mình ra đi tìm đường cứu nước, đến việc chọn con đường giải phóng dân tộc mình, từ trong kháng chiến cũng như trong xây dựng CNXH.
Tư tưởng độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người luôn khẳng định độc lập dân tộc là quyền lợi mà dân tộc ta đáng được hưởng, “không ai có thể chối cãi được”. Độc lập dân tộc là khát vọng mà bất kì một dân tộc thuộc địa nào cũng đều khao khát: “tự do cho dân tộc tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Cả cuộc đời mình, Người luôn đặt vấn đề dân tộc độc lập lên trên tất cả. Năm 1919, thay mặt người Việt Nam yêu nước, Người đã gửi tới hội nghị Vecxây yêu sách đòi quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam và kí tên Nguyễn Ái Quốc. Năm 1930, khi soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo Người cũng đề cao vấn đề độc lập dân tộc, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên giải phóng giai cấp. Mặc dù lúc đó khuynh hướng chung của Quốc tế cộng sản là đấu tranh giai cấp, Người vẫn kiên trì đoàn kết mọi thành phần dân tộc miễn là có lòng yêu nước tham gia cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính vì vậy, Người đã bị quốc tế cộng sản phê bình và khiến cho không thể tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng ở Việt Nam trong giai đoạn 1933-1939. Tuy vậy, cuối cùng Người vẫn được trở về lãnh đạo cuộc đấu tranh của dân tộc, Người đã khẳng định được vai trò của vấn đề độc lập dân tộc trong cuộc cách mạng XHCN của nhân dân các nước thuộc địa.
Tháng 5-1941, trong thư “kính cáo đồng bào”, Người chỉ rõ “trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”, Người khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện then chốt cho cuộc đấu tranh của toàn thể dân tộc.
Tháng 8-1945, Người đúc kết ý chí đấu tranh cách mạng đang sục sôi ở trong nước trong câu nói bất hủ: “dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Người thay mặt chính phủ lâm thời long trọng khẳng định trước thế giới quyền được hưởng nền tự đo độc lập của cả dân tộc Việt Nam. Và Người cũng khẳng định “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Người trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Trả lời các nhà báo nước ngoài tháng 1 năm 1946, Người đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
Tư tưởng của Người, tấm gương mẫu mực của Người thể hiện qua câu nói “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập tự do là mục tiêu chiến đấu là lý tưởng đấu tranh, là nguồn sức mạnh cho ý chí Việt Nam, tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Chân lý ấy có giá trị vĩnh hằng cho mọi dân tộc, mọi quốc gia, trong mọi thời kì lịch sử.
Trong nhiều bài viết của mình, Người khẳng định: “phải tự lực tự cường trong cuộc đấu tranh có như thế mới có thể giành được thắng lợi”, và Người đề cao sức mạnh của tinh thần: “muốn lên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”.
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính luôn được đề cao trong tinh thần của Người. Trong xây dựng CNXH, Người lại đòi hỏi: “Trước đây nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kì kháng chiến thì ngày nay chúng ta cần phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự và độc lập hoàn toàn, nghĩa là dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền quốc gia trên tất că các lĩnh vực là toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải sự độc lập giả hiệu, chủ quyền do ngoại bang ban phát, lãnh thổ bị chia cắt. Trong lời kêu gọi nhân ngày kỉ niệm mùng 2 tháng 9 năm 1948, Người nhấn mạnh: “Chúng ta sẵn sàng hợp tác thân thiện với nhân dân Pháp, chúng ta yêu chuộng hòa bình. Nhưng chúng ta quyết không chịu làm nô lệ. Chúng ta quyết kháng chiến đến cùng, tranh cho kì được thống nhất và độc lập, thống nhất và độc lập thực sự chứ không phải cái thứ thống nhất và độc lập bánh vẽ mà thực dân vừa thí cho bọn bù nhìn. Thống nhất mà bị chia rẽ thành “nước Nam Kì”, “nước Tây Kì”, “liên bang Thái”... Độc lập mà không có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”. Độc lập phải được thực hiện triệt để, mọi vấn đề chủ quyền của dân tộc đều do dân tộc đó tự quyết, chứ không chấp nhận bất cứ sự can thiệp thô bạo của bất cứ thế lực nào.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa độc lập là đóng cửa, là quay lưng lại với thế giới. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập không có nghĩa là biệt lập đứng riêng một mình mà để có thể hợp tác bình đẳng với tất cả các nước thì cần phải độc lập, tự chủ. Mọi sự giúp đỡ từ bên ngoài để đấu trạnh cho độc lập tự do đều được hoan nghênh, ghi nhận. Tự lực, tự chủ, tự cường là biểu hiện của tinh thần yêu nước chân chính, gắn bó mật thiết với tinh thần quốc tế trong sáng.
Đường lối độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đã giúp chủ tịch Hồ Chí Minh chèo lái con thuyền Việt Nam vững vàng trước hai ngọn sóng Xô - Trung trong thập niên 60, thời kì mà giữa hai nước Liên Xô, Trung Quốc có những bất đồng lớn. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam luôn cần đến sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế, nhưng Người chỉ rõ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam quyết định. Vì chúng ta có thế, có lực thì bên ngoài mới ủng hộ, giúp đỡ và sự ủng hộ, giúp đỡ đó mới mang lại hiệu quả.
Trong tư tưởng của Người, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường có mối quan hệ chặt chẽ với mở rộng hợp tác quốc tế. Người đã từng nói: “nhờ Liên Xô thắng lợi mà những nước thuộc địa như Trung Quốc và những nước thuộc địa như Triều Tiên, Việt Nam đã đánh được hoặc đang đánh đuổi bọn đế quốc xâm lăng trả lại tự do, độc lập”. Trên báo L’Humanité ngày 2/8/2919, Người viết: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào sự phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”. Trả lời cho câu hỏi: “khi ngoại thương của Việt Nam khôi phục thì Việt Nam sẽ giao dịch với những nước dân chủ nhân dân những gì?” của phóng viên báo Telepress, tháng 3/1949, Người khẳng định: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, thắng lợi của cách mạng Việt Nam cần đến sự ủng hộ quốc tế nhưng không được trông chờ, ỷ lại mà phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cáI tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”. “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác đến giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Sự giúp đỡ của bạn bè là quý báu, chúng ta phải biết ơn sự giúp đỡ đó, song chớ vì bạn giúp ta nhiều mà trông chờ ỷ lại, mà phải đem sức ta ra mà giải phóng cho ta.
Theo quan điểm của Người, mở cửa hội nhập kinh tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè năm châu, mà thông qua sự giúp đỡ đó có điều kiện để phát triển những tiềm năng vốn có của Việt Nam. Muốn vậy phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế xã hội. Người nhắc nhở, các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêm điều kiện để tự lực cánh sinh. Bởi vậy, Chính phủ phải có kế hoạch sử dụng hợp lý sự giúp đỡ ấy. Cán bộ ta phải ra sức công tác, phải làm việc tốt với các chuyên gia bạn, học tập kinh nghiệm tiên tiến của các nước bạn, phải bảo quản và sử dụng tốt những máy móc và vật liệu các nước bạn đã giúp ta, phải nghiêm khắc chống bệnh quan liêu, lãng phí, tham ô.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính đổi mới sáng tạo luôn là một trong những luận điểm quan trọng. Người đã kết tinh văn hoá phương Đông với chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo để từ đó vận dụng vào thực tiễn cách mạng và xây dựng CNXH ở Việt Nam và tạo ra nguồn sức mạnh cho cả dân tộc. Người đã tích cực chủ động sáng tạo trong nhiều việc làm của mình để đạt được hiệu quả cao nhất.
Luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc của người đã vạch trần những âm mưu, thủ đoạn và tội ác của thực dân Pháp với các dân tộc thuộc địa, nêu rõ nỗi đau khổ và khát vọng giải phóng của những người dân mất nước. Đây là luận điểm “có một không hai” mà ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân đã vượt hẳn những gì mà lý luận mác-xít đề cập đến.. Những luận điểm của Người về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là hình ảnh “con đỉa hai vòi” không chỉ thức tỉnh các dân tộc thuộc địa mà còn thức tỉnh cả Đảng Công Sản ở chính quốc.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn ở các nước thuộc địa, giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị, bè lũ tay sai với toàn thể nhân dân, dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo. Theo Người, ở Việt Nam cũng như các nước phương Đông, do trình độ sản xuất còn thấp kém nên sự phân hóa và đấu tranh giai cấp không giống như các nước phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản “là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp. Đường lối cách mạng của Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên CNXH; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cũng từ luận điểm cơ bản đó mà Người đã có những phát hiện sáng tạo về Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí. Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt động quân sự của thế giới, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Người đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kì; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ, về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại...
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phủ hợp, “chứ không phải nước nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau”. Vì vậy, ngay từ chính cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại hội nghị Trung ương VIII tháng 5-1941, Người đề ra chủ chương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ ấy không phải thuộc quyền riêng giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, Người luôn phê phán tính rập khuôn máy móc, xa rời thực tiễn. Người đề cao thực tiễn và việc bám sát thực tiễn, bằng chứng là trong những năm làm chủ tịch nước, Người luôn theo dõi sát sao chỉ đạo cán bộ và thường xuyên thăm hỏi nhân dân để nắm bắt tình hình nhân dân. Người có nhiều bài viết đề cao vai trò của việc thường xuyên đổi mới lề lối làm việc của cán bộ Đảng viên. Người nhấn mạnh vai trò của việc đổi mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Không thể cứ rập nguyên xi mô hình của Liên Xô, Trung Quốc vào Việt Nam. Người đã nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam khác với Liên Xô cũng như Trung Quốc bởi điều kiện ở Liên Xô và Trung Quốc là khác với Việt Nam. Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng XHCN ở Việt Nam là: “Đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, cho con cháu ta.” Đặc điểm lớn nhất của thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta là: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.” Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật của CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn soi đường chỉ lối cho Đảng, cho nhân dân trên mọi lĩnh vực. Qua nửa thế kỉ giành và giữ nền độc lập, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là hình ảnh tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng XHCN, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đưa đời sống nhân dân ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên một vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Từ những gì chúng ta phân tích, soi chiếu vào công cuộc đổi mới mà dân tộc ta đang thực hiện, chúng ta cần nhận ra nhiều bài học.
Thứ nhất là luôn đề cao tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, giữ vững nền độc lập dân tộc mà chúng ta đã phải đánh đổi bằng máu xương. Khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện then chốt cho mọi hành động của dân tộc, đồng thời hướng đi của dân tộc là đi tới CNXH- một xã hội thật sự tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, không có người bóc lột người.
Mặc dù hiện nay, CNXH thế giới, sau những biến động khủng hoảng, sụp đổ, đã có nhiều dấu hiệu phát triển tích cực, song các thế lực thù trong, giặc ngoài vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”...hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong đó, ngay cả một bộ phân nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên, đứng trước những khó khăn trong thời kì quá độ lên CNXH, trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp vời sự chống phá nham hiểm của kẻ thù, đã đánh mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Những diễn biến phức tạp của tình hình đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng viên đều phải có lập trường chính trị vững vàng, xác định rõ con đường chúng ta đang đi là con đường tiến lên CNXH để từ đó vững bước trên con đường mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã chọn. Đảng ta cần phải có kế hoạch tăng cường công tác an ninh quốc phòng kết hợp với giáo dục ý thức cách mạng và bảo vệ tổ quốc, song song với đó là phải nâng cao dân trí và nhận thức của người dân, phát triển to
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25345.doc