Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người. Đã bao các thế hệ đi qua luôn đặt câu nói của Bác Hồ làm kim chỉ nam cho sự nghiệp của mình “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng
Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đang cần những thế hệ công dân tốt và đội ngũ cán bộ có đủ cả đức lẫn tài. Cho nên, việc tăng cường công tác giáo dục đạo đức là một trong những yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển con người trong giai đoạn mới. Trong thời kỳ Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, có thể nói, chưa bao giờ sự nghiệp giáo dục của nước ta lại phải chịu nhiều tác động bởi cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Chính điều đó đã đem lại những mặt tích cực và tiêu cực cho nền đạo đức nước nhà.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9366 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yện đạo đức cho con người trước hết là cho cán bộ đảng viên là cần thiết. Người thường nhắc lại ý của V.I.Lenin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong di chúc, Người căn dặn:” Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Trong cuốn Đường Cách Mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có cái trí thì cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp nhận, đi theo. Người phân tích, người có đức mà bất tài giống như ông Bụt ngồi trong chùa không làm hại ai nhưng cũng chẳng có ích gì, ngược lại có tài mà không có đức là hỏng. Như vậy, tài và đức, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực phải thống nhất làm một, trong đó đức là gốc của tài, hồng là gốc của chuyên, phẩm chất là gốc của năng lực. Tài càng lớn thì đức càng cao, vì đức- tài nhằm phục vụ nhân dân. Vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người. Mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau.. nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì là người cao thượng. Suy rộng ra, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam mà còn cả nhân dân thế giới.
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a. Trung với nước, hiếu với dân.
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. ”Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và đưa vào đó một nội dung mới ”Trung với nước, hiếu với dân”. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước, là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Nước là của dân,nhân dân làm chủ đất nước, bao nhiêu quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải là ”quan cách mạng”. Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành tận trung với nước tận hiếu với dân, Hồ Chí Minh đã thức hiện một cuộc cách mạng về đạo đức :”Đạo đức cũ như người đầu cuối ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” vừa thể hiện tốt truyền thống, vừa thể hiện tính cách mạng, dễ hiểu, dễ nghe, dễ tiếp nhận.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Cần, kiệm, liêm, chính là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất ”trung với nước hiếu với dân”.
Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Tục ngữ có câu nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ. Dao siêng mài thì sắc bén, ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt…Mọi người đều phải cần, cả nước đều phải cần. Cần còn bao hàm cả trí, nghĩa là lao động có kế hoạch, sáng tạo và có năng xuất cao.
Kiệm là tiết kiệm công sức, tiền của và thời gian của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình, sử dụng chúng sao cho có ích, hiệu quả nhất. Kiệm có nghĩa là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi trong sản xuất và đời sống. Tiết kiệm theo Hồ Chí Minh hoàn toàn trái ngược với bủn xỉn. Người nói “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù hao bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng”.
Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc cảu nhà nước của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy đạo. Cụ Khổng nói “người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh nói “ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”. Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm, cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần.
Chính là không tà, là thẳng thắn và đứng đắn. Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia ra làm hai thứ : việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Người yêu cầu: đối với mình-không được tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sữa chữa cái dở của mình. Đối với người-không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà không dối trá. Đối với việc-phải lấy việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh. Cần, kiệm, liêm là gốc của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có nhành lá, hoa quả, mới là cây hoàn thiện.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng thực hiện, song cán bộ đảng viên phải là người thực hành trước để kiểu mẫu cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc, là nền tảng của đời sống mới.
Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị, làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, tức là lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người nhấn mạnh, thự hành chí công vô tư có nghĩa là phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đên chí công vô tư và ngược lại.
c. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho con người. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh là một tình cảm rộng lớn nhưng không chung chung, trừu tượng mà sâu sắc, cụ thể, bao dung. Trước hết, Người dành tình thương cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền làm chủ, bị áp bức bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người mong muốn đất nước hoàn toàn độc lập, dân được tụ do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ở Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, không dừng lại ở lòng trắc ẩn mà còn được nâng lên ở tầm cao của nhận thức. Thể hiện trong mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em. Việc chặt chẽ nghiêm khắc với bản thân mình và rộng rãi độ lượng, giàu lòng vị tha với người khác. Ở thái độ tôn trọng quyền con người, nâng cao con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp hay vùi dập con người.
d.Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc trưng của đạo đức cộng sản, bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung chủ nghĩa quốc tế rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó la mối quan hệ hữu nghị,hợp tác, giúp đỡ, tương trợ với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ hằng thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa quốc tế chỉ có thể tốt đẹp khi mỗi quốc gia phát huy tinh thần chủ động, tự lực tự cường và phải hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của mình, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Đó là tinh thần quốc tế cao đẹp mà Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thấm nhuần, rèn luyện trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, phát triển và tiến bộ toàn thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã dày công xây đắp tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại.
3.Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức.
Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức phương Đông, xưa nay nhân dân ta vẫn chê trách những kẻ “nói như rồng leo, làm như mèo mửa” hoặc những kẻ “ngậm miệng ăn tiền” không dám nói điều đúng, hoặc tệ hơn là những kẻ “nói một đàng làm một nẻo”. Đạo đức Nho giáo cũng chê trách những kẻ đớn hèn “Kiến nghĩa bất vi vô dũng”. Với Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường cách mệnh. Người cho rằng, nói được làm được sẽ đến được với nhân dân, nói đi đôi với làm sẽ đem lại hiểu quả thiết thực cho chính mình và người khác, nói mà không làm là thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột. Sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biều hiện của thói đạo đức giả của một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng” nói mà không làm. Bản thân Người là một tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm.
b. Nêu gương đạo đức.
Hồ Chí Minh chỉ rõ “nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý nghĩa đó, Người luôn nhắc nhở các thế hệ cán bộ, Đảng viên Viêt Nam bằng lý luận cách mạng “Trước mắt quần chúng không phải viêt lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, và còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình. Nói đi đôi với làm phải gắn với nêu gương cách mạng, phải đặc biệt chú trọng trong đạo làm gương. “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Phải luôn chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nêu gương về đạo đức phải diễn ra ở mọi nơi mọi lúc. Trong gia đình, đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em, của ông bà đối với con cháu. Trong nhà trường, đó là tấm gương của thầy cô đối với học sinh. Trong tổ chức tập thể là tấm gương của người lãnh đạo của cấp trên đối với cấp dưới. Trong xã hội là tấm gương của người này đối với người kia, của thế hệ trước với thế hệ sau.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã hội.
c. Xây đi đôi với chống.
Trong đời sông hằng ngày, những hiện tượng đúng sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người. Do vậy, để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây phải đi đôi với chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây đựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ gia đình, nhà trường đến xã hội. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mỗi người tự giác nhận thức trách nhiệm đạo đức của mình. Người nói “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Điều đó cũng cần thiết đối với mỗi tổ chức, trước hết là Đảng. Trong mối quan hệ giữa xây và chống, phải lấy xây làm chính, làm nhiệm vụ chủ yếu lâu dài để mọi người nâng cao sức đề kháng của mình trước cái ác cái xấu. Việc xây đó phải phù hợp với từng giai đoạn cách mạng,với từng lứa tuổi, từng giai cấp, tầng lớp, ngành nghề, trong từng môi trường khác nhau.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn đang diễn ra trong xã hội bằng nhiều biện pháp giáo dục, phê phán, trừng trị bằng pháp luật… Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức mới chỉ có thể thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập quán lạc hậu, loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Mà để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân.
d. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh đã là người thì ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ xấu chỗ tốt, ai cũng có cái thiện có ác ngay trong lòng mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào mình, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái dở để mà quyết tâm khắc phục, không tự lừa dối, huyễn hoặc. Đạo đức không phải là cái nhất thành bất biến, cái có thể vươn đến một lần là yên tâm, mà đạo đức là điều phải tu dưỡng suốt đời. Chính khả năng tu dưỡng này là chuẩn mực duy nhất phân biệt được giá trị cao hay thấp của người này hay người khác dù vị trí xã hội họ khác nhau, quá khứ họ khác nhau. Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Người chỉ rằng, phải làm thế nào để mỗi người tự nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc “sung sướng vẻ vang nhất trên đời”. Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Do vây tu dưỡng đạo đức cách mạng không phải ngồi trong tháp ngà để những điều xấu xa không lan đến, mà phải rèn luyện bản lĩnh đạo đức trong thực tiễn sinh động và nhiều cung bậc của cuộc sống, đúng như Người từng nói “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Cả cuộc đời Người là một tấm gương vĩ đại về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Quá trình rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của Hồ Chí Minh đã nâng Người lên thành bậc đại nhân, đại trí, đại nghĩa, đại dũng, đại liêm…đã khiến kẻ thù phải kính phục, bị cảm hóa và nhân loại tin tưởng noi theo.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ truyền thống đạo đức dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại, đạo đức cộng sản Mác-Leenin và sự tu dưỡng, rèn luyện không mệt mỏi của Người. Trong đó đạo đức học Mác-leenin đóng đóng vai trò chủ đạo, đã được Người kế thừa, vận dụng sáng tạo để xây dựng nền đạo đức mới nhằm phát triển toàn diện con người trong thời đại mới.
II .Vận dụng trong sự nghiệp giáo dục đạo đức hiện nay ở Việt Nam.
1. Thực trạng tình hình đạo đức ở Việt Nam.
Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người. Đã bao các thế hệ đi qua luôn đặt câu nói của Bác Hồ làm kim chỉ nam cho sự nghiệp của mình “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng
Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đang cần những thế hệ công dân tốt và đội ngũ cán bộ có đủ cả đức lẫn tài. Cho nên, việc tăng cường công tác giáo dục đạo đức là một trong những yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển con người trong giai đoạn mới. Trong thời kỳ Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, có thể nói, chưa bao giờ sự nghiệp giáo dục của nước ta lại phải chịu nhiều tác động bởi cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Chính điều đó đã đem lại những mặt tích cực và tiêu cực cho nền đạo đức nước nhà.
a. Những mặt tích cực.
Cùng với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, một nền đạo đức mới với những con người năng động đã và đang hình thành là một nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như yêu nước, thương người, sống có nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới, những nội dung mới của xã hội và thời đại. Nhờ vậy mà phần lớn đội ngũ sinh viên, thanh niên trí thức năng động, sáng tạo, nhạy bén với thời cuộc, sống có bản lĩnh tư tưởng mục đích rõ ràng, nhưng vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, gắn bó với nhân dân, kế thừa tinh thần xung phong, đi đầu, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thách thức trong mọi lĩnh vực, xúng đáng là những con người vừa hồng vừa chuyên, là trụ cột của nước nhà trong tương lại. Biểu hiện cụ thể là các phong trào thanh niên tình nguyện với châm ngôn “đâu cần thanh niên có đâu khó có thanh niên” đã và đang giúp đỡ bà con vùng xa phát triển kinh tế, nâng cao trình độ văn hóa. Ngoài ra, đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên có năng lực, không ngừng phấn đấu trao dồi thêm kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ trong thời đại mới; Đồng thời luôn sống và làm việc đúng đắn với những chuẩn mực đạo đức cách mạng mà Bác đã dạy, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân, đất nước.
b. Những mặt tiêu cực.
Bên cạnh nền kinh tế thị trường chịu sự chi phối mạnh mẽ của đồng tiền và quá trình toàn cầu hóa với sự bùng nổ thông tin cùng với những dòng văn hóa nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam đã làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, những truyền thống tốt đẹp mà chúng ta đã xây đắp và giữ gìn hang nghìn năm. Những thói hư tật xấu nó ảnh hưởng đến tất cả mọi người, nhưng chúng sẽ đánh mạnh đến nền móng của đất nước.Và không ai khác mà là chính chúng ta,những người học sinh, sinh viên - thế hệ tương lai của nước nhà.
Đạo đức trong học sinh, sinh viên hiện nay là vấn đề khá nóng bỏng được xã hội rất quan tâm. Phải thừa nhận rằng, chưa bao giờ lối sống đạo đức trong giới trẻ lại đáng lên án và cảnh báo như hiện nay. Biểu hiện cụ thể là vấn đề bạo lực và đạo đức học đường gây nhức nhối trong xã hội. Theo TS Phạm Thị Kim Anh, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, dẫn ra kết quả một cuộc điều tra, khảo sát của thanh tra Bộ GD- ĐT với 1.827 sinh viên tại 12 cơ sở giáo dục cho thấy: 89% sinh viên từng sử dụng tài liệu trong phòng thi, 85% từng quay cóp, 42% sao chép luận văn, đồ án, 36% từng xin hoặc mua điểm… Th.S Tống Thị Hồng, giảng viên Trường CĐ Sư phạm Đồng Nai, nêu lên một thực tế tìm hiểu từ 140 trường ở Đồng Nai cho thấy: ở bậc mầm non, một số học sinh có những hành vi chửi thề, nói tục, bắt chước các hành vi quan hệ nam nữ trong phim ảnh (chưa ý thức). Học sinh tiểu học không chào hỏi người lớn, nối dối, xé bài vở trước mặt thầy cô khi bị điểm thấp. Học sinh trung học vô lễ với giáo viên , sửa điểm trong sổ liên lạc, mạo chữ ký cha mẹ xin nghỉ học đi chơi… Đáng lo ngại tình trạng bạo lực học đường trong thời gian gần đây không thuyên giảm mà thậm chí còn gia tăng với những hành vi và mức độ bạo lực nguy hiểm hơn trước. Cụ thể là việc chia bè, kết phái, những cuộc ẩu đả, đánh nhau của học sinh, sinh viên dẫn đến thương vong thậm chí là tử vong như vụ một học sinh lớp 11 ở Đá Nẵng bị đâm chết ngay cổng trường, hay vụ đánh nhau giữa hai nhóm học sinh ở một trường cấp ba quận Tân Bình làm một em chết và tám em bị thương. Hay gần đây, liên tục những clip nữ sinh đánh nhau, làm nhục nhân phẩm được tung lên mạng gây hoang mang cho xã hội. Bất nhẫn và đáng phẫn nộ nhất là vụ cựu sinh viên trường ĐH Nông Lâm Trần Xuân Thanh tạt axit thầy Đặng Hữu Dũng chỉ vì bị thầy đánh trượt môn Tiếng Anh. Vụ án trên đã gây bức xúc cho giới sinh viên của trường. Ngoài ra một bộ phận giới trẻ mất niềm tin vào cuộc sống, không có lý tưởng mục đích phấn đấu, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút sách, trộm cắp… trở thành gánh nặng cho nước nhà. Phải chăng đó là những hậu quả tất yếu của sự bùng nổ thông tin, của những dòng văn hóa đồi trụy, của sự thiếu quan tâm giáo dục kịp thời từ phía gia đình và trường học. Và một nguyên nhân nữa đó là sự tha hóa đạo đức của một số giáo viên, giảng viên khi chỉ biết chạy theo đồng tiền mà quên đi cái tâm của nghề. Thậm chí là những việc mang tính chất vô nhân tính làm mất đi hình tượng cao đẹp về nhà giáo như vụ nữ sinh trường CĐ Truyền hình bị thầy giáo “gạ tình lấy điểm”, hay ở Hà Giang một thầy hiệu trưởng đã lợi dụng thân xác và tham gia đường dây mua bán dâm trẻ vị thành niên, một vụ tương tự cũng đã xảy ra tại Cao Bằng trước đó, tàn nhẫn hơn, một thầy giáo giở trò dâm ô với một học sinh mới hơn bốn tuổi tại Hà Nội. Và mới đây, một giáo viên tiểu học ở Hà Tĩnh đã bị bắt vì tội cưỡng bức một nữ sinh lớp bốn. Ngoài ra tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân , tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận công chức diễn ra nghiêm trọng. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trực tiếp giải quyết vấn đề cho dân, doanh nghiệp chậm khắc phục. Một số cán bộ, đảng viên kể cả một số cán bộ lãnh đạo yếu kém về mặt phẩm chất đạo đức và năng lực, thiếu tính tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích cán nhân lên trên, không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ. Việc suy đồi đạo đức ấy đã và đang gây mất lòng tin của nhân dân vào sựu lãnh đạo của Đảng và nhà nước, không những vậy nó đã gián tiếp gây thiệt hại tính mạng và của cải cho nhân dân, cho đất nước.
Như vậy tuy đạt được những mặt tích cực, song thực trạng đạo đức của nước ta đang xuống cấp một cách nghiêm trọng. Rõ ràng sự nghiệp giáo dục của nước ta còn xa vời thực tế, nặng lý thuyết, nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện nay.
2. Biện pháp khắc phục.
Hiện thực xã hội những năm vừa qua, đôi lúc làm chúng ta thực sự lúng túng. Tuy nhiên, không phải vì thực trạng đó mà đổ lỗi cho khách quan, cho nền kinh tế thị trường. Mỗi chúng ta cần phải nhận diện các hiện tượng đó với những mặt tích cực và tiêu cực để kiểm soát và điều chỉnh hành vi của chính mình. Nghĩa là phải có cái nhìn khách quan, phải có sự đánh giá nghiêm túc trước những diễn biến của đời sống đạo đức xã hội những năm vừa qua. Đảng ta cũng đã từng thừa nhận là “thiếu sự chuẩn bị đầy đủ”, “chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức”. Chính vì quá xem nhẹ hay chưa chú ý đúng mức việc giáo dục đạo đức nên cả xã hội đã phải chứng kiến quá nhiều những hành vi vô đạo đức, phản luân lý. Vì vậy, hơn lúc nào hết, cùng với việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, việc chú trọng công tác giáo dục đạo đức với nhiều nội dung, bằng nhiều hình thức phù hợp, thiết thực đối với mỗi người Việt Nam, với đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là với thế hệ trẻ của nước nhà. Cụ thể là đẩy mạnh phong trào học và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh với một số nội dung cơ bản như:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản gị và đức khiêm tốn phi thường.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sực phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
Chúng ta còn giáo dục đạo đức bằng nêu những tấm gương sáng, phát huy hơn nữa tinh thần thì đua yêu nước trong các đoàn thể, tổ chức, cơ quan trên mọi lĩnh vực xã hội. Đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng phi đạo đức, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, khắc phục những biểu hiện tư tưởng đạo đức cũ không còn phù hợp. Chẳng hạn, xử lý triệt để những hành vi bạo lực học đường, hành vi trái với đạo đức học đường, đi ngược với lễ thầy trò. Kỷ luật, loại bỏ những cán bộ, đảng viên tha hóa về đạo đức cách mạng, tình trạng tham nhũng, thiếu trách nhiệm, cửa quyền của các cơ quan nhà nước.
Từ đó, mỗi người dân Việt Nam thấy được vai trò, vị trí của đạo đức đối với cá nhân và xã hội, để vươn lên với tinh thần, tình cảm và trách nhiệm của mình, làm chủ được một cách đúng đắn tri thức hiện đại, trở thành những con người có đầy tâm, đủ tài, biết “đau với nỗi đau của đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_tu_tuong_6333.doc