Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, giáo dục là quốc sách

Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được "đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4077 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, giáo dục là quốc sách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.     Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, đồng thời cũng là nhà giáo dục lớn. Người đã đặt nền móng cho nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục toàn dân, toàn diện, khoa học và hiện đại. Bên cạnh đó chúng ta còn biết đến Người là nhà giáo dục chính trị tài tình. Người để lại cho chúng ta tư tuởng lớn về giáo dục lý luận chính trị. ở phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ tập trung đề cập đến việc vận dụng tư tưởng của Người vào giáo dục lý luận chính trị.       Giáo dục lý luận chính trị là giải thích, tuyên truyền những vấn đề thuộc lý luận chính trị, bằng việc đi sâu giải thích các sự vật hiện tượng diễn ra trong tự nhiên, xã hội, trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và niềm tin của con người để đi đến hành động đúng đắn. Giáo dục lý luận chính trị đem đến cho mọi người những hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới quan, nhân sinh quan, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống, hoài bão, ý chí, nguyện vọng, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ cái cũ, tiếp thu có chọn lọc cái mới... Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị là nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hình thành và phát triển tư tưởng xã hội, phát triển những mâu thuẫn xã hội và đưa ra những dự báo để phát triển cho tương lai.      Nhiệm vụ của giáo dục lý luận chính trị là thông qua các công cụ và phương tiện để truyền bá những kiến thức phong phú của đời sống xã hội, các quan điểm, những đánh giá về các hiện tượng và xu thế phát triển của của xã hội. Với tầm quan trọng như vậy Hồ Chí Minh cho rằng công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng tiên phong phải đạt trình độ tiên phong: "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam"(1). Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị cần phải định hướng cho nhận thức tư tưởng, mục tiêu và con đường đi lên của các dân tộc trên thế giới. Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh" Hồ Chí Minh khẳng định: Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong"(2).      Trong qua trình bôn ba tìm đường cứu nước, sau khi đã được đọc, được chứng kiến và qua phân tích, tổng kết các học thuyết chính trị, Hồ Chí Minh đi đến kết luận phải đi theo chủ nghĩa Mác. Bởi đặc trưng của chủ nghĩa Mác là tính cách mạng, tính khoa học. Nó thể hiện lập trường tư tuởng của giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó đem lại sự hiểu biết về quá trinh diễn biến lịch sử, về sự phát triển của thời đại, giúp con nguời nhận thức được bản chất các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Nó khác về chất với các học thuyết khác như chủ nghĩa cải lương, cơ hội. Chính vì vậy năm 1927 Người đã khẳng định: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin" (3)      Công tác giáo dục lý luận chính trị là hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo Hồ Chí Minh giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao đạo đức cách mạng cho các bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống. Chính vì vậy nội dung của công tác giáo dục lý luận chính trị là rất rộng, bao gồm việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối quan điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng, xây dựng Đảng, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước. Công tác giáo dục lý luận chính trị có nhiều hình thức như các lớp học tập lý luận, những đợt sinh hoạt chính trị, Nghị quyết của Đảng, những báo cáo chuyên đề lý luận chính trị,... đặc trưng của công tác giáo dục lý luận chính trị là phương pháp giảng dạy và học tập theo chương trình nhất định nhằm làm cho nguời học nắm được một cách cơ bản lý luận Mác - Lênin, đường lối quan điểm, chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng và của Nhà nước.       Từ nội dung của giáo dục lý luận chính trị Người đưa ra mục đích và nhiệm vụ sau:       "a) Học để sửa chữa tư tưởng: hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động cho khỏi sai lạc và mới làm tròn được nhiệm vụ cách mạng.       b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.       c) Học để tin tưởng: tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào tương lai dân tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết hy sinh.       d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi với nhau. Học mà không hành thì hành không trôi chảy"(4).  Hồ Chí Minh xác định cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng thì cần phải học nhiều hơn. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà yêu cầu họ làm cách mạng thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Vì vậy, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, mỗi cán bộ đảng viên không chỉ bô lô, bô la mà phải ra sức học tập, học ở nhà ở trường, học ở thực tiễn, học ở quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, Người yêu cầu: "Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình"(5), đó chính là những định hướng mà Người nêu ra cho mỗi cán bộ đảng viên.      Với Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác là học tập cái biện chứng, bởi cách mạng là sáng tạo. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi mỗi người muốn hoàn thành nhiệm vụ phải sáng tạo, phải có sáng kiến trong các lĩnh vực công tác. Giáo dục, học tập lý luận không phải giáo điều từng câu, từng chữ, mà phải nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp, tinh thần cách mạng, mà học để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta. Theo Hồ Chí Minh việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên và nhân dân là giúp họ nắm được bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết đó.      Trong cách học, là học ở mọi nơi, mọi lúc, học suốt đời coi trong việc tự học, bởi Người đã chỉ rõ: "Cách mạng tiến lên mãi, Đảng ta tiến lên mãi". Cho nên cán bộ đảng viên phải thường xuyên trau dồi lý luận chính trị, vì cán bộ là gốc của mọi công việc. "Công việc thành hay bại là do cán bộ tốt hay xấu". Sự phát triển của tư duy, nhận thức, học vấn, trình độ văn hoá của cán bộ đảng viên là quá trình khổ công rèn luyện, tích luỹ kiến thức, đó chính là con đường phát triển của tư duy khoa học và tư duy lý luận chính trị. Người căn dặn: "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi công việc đối với mọi người và đối với bản thân mình", "Học để làm việc, học để làm người, học để làm cán bộ". Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới, mà còn là vũ khí để cải tạo bản thân mình. Lý luận Mác - Lênin là khoa học làm người, góp phần hình thành đạo đức mới, nếp sống mới của người cách mạng. Người xem học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là đạo đức cách mạng. Người căn dặn chúng ta: "Nhân dân ta từ lâu đã sống với ta có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn"(6).      Hồ Chí Minh còn đề ra nhiệm vụ cho Đảng là phải truyền bá lý luận Mác - Lênin vào trong quần chúng nhân dân. Người phân tích, lý luận chính trị làm cho dân giác ngộ, bày cho quần chúng nhân dân tổ chức, động viên quần chúng hành động cách mạng. Có lý luận chính trị Mác - Lênin soi đường thì quần chúng nhân dân hành động mới đúng đắn, mới phát triển tài năng và lực lượng vô tận của họ. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ là phải chống thói xem nhẹ học tập lý luận chính trị, "vì không học tập lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là "mù chính trị", thậm chí hủ hoá xa rời cách mạng"(7).       Giáo dục lý luận chính trị nhằm quán triệt và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, đồng thời phải phản ánh hiện thực lịch sử xã hội trong từng thời kỳ. Người giải thích: "Nắm vững đường lối cách mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay"(8). Đồng thời với việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin các chủ trương chính sách của Đảng của Nhà nước, Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải học kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết phong trào của quần chúng để phải triển thành lý luận.     Trong quan điểm giáo dục lý luận chính trị, Người luôn yêu cầu phải tuân thủ phương châm lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Phương châm này đã trở thành thói quen, nếp sống trong hoạt động cách mạng. ở đâu nói về vấn đề gì, làm việc gì, lời nói và việc làm của Người cũng hoà làm một, gắn kết với nhau chặt chẽ. Bởi, Người đã tiếp thu sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn - một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với Người những vấn đề lý luận trừu tượng được diễn đạt rất giản dị, dễ hiểu. Chẳng hạn khi nói về sở hữu tập thể, Người chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội là nhà máy, trường học là của chung". Hay khi định nghĩa về chủ nghĩa xã hội "là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do"(9). Người chỉ rõ "Lý luận không gắn với thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn mù quáng".       Theo Người, hoạt động lý luận của người cán bộ đều phải đáp ứng nhu cầu của người cách mạng; đồng thời phải vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo trước mọi biến đổi của cách mạng, không nên dập khuôn máy móc. Người còn khuyên trong cách viết không nên viết dài, nói dài, trừu tượng mà phải nói ngắn gọn, cô đọng, hàm xúc, sinh động thì quần chúng mới hiểu được. Đặc trưng của giáo dục chính trị là tính khái quát cao. Nhiều câu nói của Người có nội dung bao quát cả nguyên lý, một chiến lược, nhưng Người thâu tóm trong một câu nói dễ hiểu, dễ nhớ, càng ngẫm càng thấm thía. Chính vì vậy, trong công tác giáo dục lý luận chính trị phải quán triệt nguyên tắc này.      Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, nhất là sau khi khung hoảng ở Đông âu và Liên Xô, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào tình trạng bế tắc trong đó có cả sự trì trệ, lạc hậu về công tác lý luận chính trị. Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng CSVN khoá VI đã khởi xướng con đường đổi mới. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta từng bước xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng sâu sắc về lý luận chính trị, không những thế trên con đường đổi mới Đảng ta đã thu được những thắng lợi to lớn, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi đó thì những mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang tạo ra những tiêu cực trong kinh tế xã hội. Mặt khác, do yêu cầu của sự nghiệp đổi mới có những vấn đề thực tiễn cũng đang đặt ra cho công tác lý luận cần phải giải quyết. Để đảm bảo cho công tác giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay bắt kịp với sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, một trong những yêu cầu cần quan tâm là nghiên cứu sâu sắc và vận dụng trên tinh thần biện chứng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị./.      Chú thích: GẮN LIỀN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Học lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học “để làm việc, làm người, làm cán bộ” (9/1949). Bởi vậy, khi học lý luận trở thành nhu cầu để thực hiện mục đích, lý tưởng của những người cộng sản thì lý luận “thực sự là chiếc cẩm nang thần kỳ” cung cấp cho cán bộ, đảng viên những tri thức, những hiểu biết và phương pháp tư duy để giải quyết tốt những công việc, những đòi hỏi của thực tiễn. Mỗi cán bộ đảng viên, mỗi người khi học lý luận, càng cần phải coi trọng và quán triệt nguyên tắc “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.  Đỗ Hoàng Linh Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch Nhận thức sâu sắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nhân tố quan trọng để đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Vì vậy từ quá trình chuẩn bị thành lập cho đến khi Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên quan tâm đến vấn đề lý luận kết hợp thực tiễn. Người cho đó là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ và là một nhiệm vụ cần thiết để xây dựng Đảng luôn trong sạch vững mạnh. 1. Sự cần thiết phải có lý luận Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin- học thuyết cách mạng đúng đắn nhất, khoa học nhất và tìm được lý luận tiên tiến soi đường, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Quảng Châu- Trung Quốc, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng kiểu mới ở Việt Nam. Cũng trong những năm tháng đó, một trong những nội dung Người giảng cho những người yêu nước Việt Nam là phải nắm vững và không ngừng nâng cao trình độ lý luận, đặc biệt là gắn liền lý luận với thực tiễn. Vì vậy, lời của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”[1] đã được in trang trọng ngay phần mở đầu của tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)- tác phẩm kinh điển gối đầu của những người cách mạng Việt Nam. Sau đó, chủ nghĩa Mác-Lênin vào được Việt Nam, tỏ rõ sức sống mãnh liệt, được bổ sung và phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng chính là nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người luôn đứng vững trên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, những người cộng sản Việt Nam còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều[2]. Tránh cả hai loại giáo điều này, thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam, trở thành đội tiền phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Trong suốt những năm lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng đất nước “Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước mà còn giữ vững được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực”[3]. Tuy nhiên, trong quá trình Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám 1945 và xây dựng chế độ xã hội mới, thì đã xuất hiện những bất cập. Bên cạnh những thành tích rất đáng tự hào, cũng đã có không ít những bài học đau lòng xảy ra trong thực tế. Đó là khi người cán bộ, đảng viên phần lớn xuất thân từ nông dân và công nhân, chưa có điều kiện, thậm chí không có điều kiện học tập, nghiên cứu đến nơi đến chốn, nên trình độ còn nhiều hạn chế. Họ tuy nhiệt thành cách mạng, gương mẫu đi đầu, trưởng thành trong phong trào, song sự yếu kém về trình độ, và thói quen “ít đọc sách và suy nghĩ” đã dẫn họ (với trọng trách mình đang nắm giữ) mặc nhiên làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm, đầy cảm tính. Họ coi lý luận là việc của những người lãnh đạo cấp cao, của các nhà lý luận. Còn với họ, lý luận chỉ ràng buộc tư tưởng, gò bó hành động. Thiếu hụt về trình độ văn hóa, yếu lý luận, đặc biệt là đuối kém trong việc nắm bắt những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin đã khiến họ gặp phải không ít khó khăn và lúng túng khi tiếp thu bản chất, tinh thần của những nguyên lý mác xít này. Do trình độ lý luận thấp, họ đã tuyệt đối hóa các nguyên lý của học thuyết cách mạng khoa học, đồng thời coi đó là những chân lý bất biến trong tư duy của mình. Từ đó dần sa vào giáo điều, chủ quan duy ý chí, kinh nghiệm chủ nghĩa, dẫn đến hành động một cách cứng nhắc, sai lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở rằng: muốn khẳng định và giữ vững vị thế của một Đảng cầm quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải “có lý tưởng, có tinh thần thiết thực và công tác thực tế hợp lại mới là người đảng viên tốt”[4]. Muốn đạt được điều đó, phải học, làm nghề gì cũng phải học, vì “cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi”. Lý luận khoa học mà Người nắm vững, vận dụng một cách sáng tạo và điều kiện cụ thể của Việt Nam và luôn mong mọi cán bộ, đảng viên được trang bị, thấm nhuần chính là lý luận Mác- Lênin, lý luận cách mạng nhất, thiết thực nhất chỉ đạo mọi hành động. Chăm lo đến công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi"[5]. Người cũng nói: "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp"[6], nên nhấn mạnh cán bộ, đảng viên cần nhớ: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”[7]. Cũng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trang bị lý luận Mác- Lênin cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu cần thiết, vì trong chiến tranh hay trong hòa bình, lý luận cũng giúp người cán bộ, đảng viên nắm cái tinh thần và nguyên tắc xử trí đối với công việc, đồng thời giúp mọi người sống tình nghĩa với nhau. Tháng 6/1968, khi làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn TƯ Đảng về xuất bản loại sách người tốt việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn căn dặn: Hiểu chủ nghĩa MácLênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin được. Đó chính là: "Học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng"[8]. 2. Mỗi cán bộ đảng viên phải gắn lý luận với thực tiễn Tuy lý luận là rất cần thiết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ có lý luận rồi thì phải kết hợp lý luận với kinh nghiệm thực tế, nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông - bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên"[9], nên người cán bộ, đảng viên không thể chỉ lý luận theo sách vở thuần túy. Bởi lẽ, "lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách", vì vậy, khi vận dụng lý luận phải luôn xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng sẽ duy ý chí, chủ quan, giáo điều. Để cán bộ, đảng viên luôn thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, khắc phục bệnh kinh nghiệm, thì trước hết họ cần phải khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận, vì rằng, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có lý luận thì chỉ dựa vào kinh nghiệm, dẫn tới tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Và khi bệnh kinh nghiệm trầm trọng, kéo dài, tổn hại gây ra sẽ không nhỏ. Thực tế cho thấy, có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng"[10]. Quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ"[11], họ thực không hiểu, thậm chí cố tình không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Vì vậy, cũng từ việc thấm nhuần những lời dạy của Lênin: “Chủ nghĩa cộng sản sẽ trở thành trống rỗng, sẽ chỉ là một chiêu bài rỗng tuếch, người cộng sản sẽ chỉ là một anh khoe khoang khoác lác tầm thường, nếu như tất cả các kiến thức đã thu nhận được không được nghiền ngẫm trong ý thức của anh ta”[12], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: người cán bộ, đảng viên muốn không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, nhất định phải cần có lý luận soi đường, chỉ đạo và hướng dẫn; còn khi họ đã có lý luận dẫn đường cũng rất cần phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phải luôn liên hệ với thực tiễn, để tránh sa vào giáo điều. Đó chính là yêu cầu: Lý luận phải gắn liền với thực tiễn, bởi: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"[13]. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm, luôn gắn liền lý luận với thực tiễn. Trong suốt cuộc đời mình, dù lúc bị tù đày hay khi đã trỏ thành một nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh vẫn không ngừng học hỏi, làm giàu tri thức, tích lũy kinh nghiệm bằng kho tàng tri thức văn hóa của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì vượt lên lối tư duy kinh nghiệm, cảm tính để đến với lý luận khoa học, gắn lý luận với thực tiễn cách mạng. Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trong mọi thời điểm, Người luôn luôn sâu sát thực tế, xuất phát từ thực tế, đặc biệt là gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Đó là vị Chủ tịch nước ngay sau khi mới giành được độc lập cứ mười ngày nhịn ăn một bữa góp gạo cứu đói cho đồng bào; tham gia cuốc đất tăng gia sản xuất với cán bộ; xuống ruộng dùng thử máy cấy lúa cải tiến; lội bùn tát nước với nông dân; ra biển kéo lưới với ngư dân; cùng đồng bào ăn cơm độn ngô trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại; lấy tiền nhuận bút từ sổ tiết kiệm mua nước uống cho chiến sĩ phòng không; đề nghị dùng tiền đúc tượng mình mua sách vở cho các cháu học sinh… Trong khoảng thời gian từ 1955 - 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hơn 700 lần đi thăm hỏi, tiếp xúc tìm hiểu thực tế đời sống của cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học, v.v... theo Người "Làm như thế là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn"[14]. 3. Gắn liền lý luận với th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan tthcm.doc