Tiểu luận Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng nhân văn đó trong thời kỳ đổi mới

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

A. MỞ ĐẦU 2

1.Lý do chọn đề tài 2

2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3

3. Giới hạn của đề tài 3

4. Phương pháp nghiên cứu 3

5. Đóng góp của đề tài 3

B. NỘI DUNG 4

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 4

1.1. Cơ sở lý luận của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 4

1.1.1 Khái niệm “con người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh 4

1.1.2 Tình yêu thương vô hạn của Hồ Chí Minh đối với con người 6

1.1.4 Đối với Hồ Chí Minh con người vừa là mục tiêu giải phóng vừa là động lực của cách mạng 10

1.2 Cơ sở thực tiễn của nhân văn Hồ Chí Minh 12

1.2.1 Cơ sở hoạt động thực tiễn 12

1.2.2 Sự nghiệp đổi mới và bài học của Hồ Chí Minh 13

1.2.3 Phấn đấu cho hạnh phúc của con người trong một xã hội công bằng 15

2. Giáo dục lý tưởng sống và giải pháp đối với vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay 16

2.1 Giáo dục lý tưởng sông cho thế hệ trẻ hiện nay 16

2.1.1 Thực trạng về lối sống của thế hệ trẻ hiện nay 16

2.1.2 Giáo dục lý tưởng sống cho thế hệ trẻ hiện nay 20

2.2 Giải pháp đối với vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay 22

2.2.1 Giải pháp chung 22

2.2.1.1 Nhà trường 22

2.2.1.2 Gia đình 24

2.2.1.3 Ra ngoài xã hội 24

C. KẾT LUẬN 29

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6205 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng nhân văn đó trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nền tảng vững chắc cho lòng tin của Người đối với nhân dân. Khác với giai cấp vô sản phương Tây, vào những năm đầu thập kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam vừa thoát thai từ đồng ruộng, đang còn ở giai đoạn phát triển “tự nó”, đang còn rất non yếu. Nhưng từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, được tin 600 thợ nhuộm Chợ Lớn quyết định bãi công, Nguyễn Ái Quốc đã coi đó là dấu hiệu chứng tỏ ở Việt Nam “giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ cách mạng về lực lượng và giá trị của mình”[8].Người coi đó là dấu hiệu của thời đại và tin tưởng rằng cùng với dân tộc, giai cấp công nhân sẽ đào mồ chôn chủ nghĩa đế quốc tại Việt Nam: “Việc đã tạo ra một giai cấp vô sản và dạy cho người An Nam biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc tự mình đào hố để chôn mình”[9] . Đây là một sáng tạo hết sức có quan trọng của Hồ Chí Minh.Giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với nông dân phải tập hợp được toàn thể dân tộc chung quanh mình; ngược lại, dân tộc phải được giai cấp công nhân lãnh đạo. Giai cấp công nhân tìm được sức mạnh của mình ở dân tộc; ngược lại, dân tộc cảm thấy ở giai cấp công nhân người dẫn đường thắng lợi cho mình. Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với nhân dân vừa bắt rễ sâu và vững chắc trong truyền thống yêu nước của dân tộc lại vừa đặt trên tầm cao của sự phát hiện và khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chính vậy mà Hồ Chí Minh tin tưởng một cách có cơ sở khoa học rằng nhân dân ta chẳng những có khả năng cứu nước mà còn có khả năng tiến lên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc và tin tưởng vững chắc rằng sức mạnh của nhân dân được thức tỉnh và được tổ chức là vô địch. Cần phải thức tỉnh tầng lớp thanh niên của những năm 20 thế kỷ XX, làm cho họ hồi sinh. Cần phải tổ chức họ thành đội ngũ. Cần phải thức tỉnh và tổ chức hàng chục triệu nông dân thất học và sống phân tán trong lũy tre làng. Cần phải thức tỉnh và tổ chức toàn thể nhân dân, dân tộc. Cần phải thức tỉnh và tổ chức chính bản thân giai cấp công nhân. Có vậy mới có thể tạo ra và phát huy sức mạnh duy nhất mà trong buổi ban đầu cách mạng có trong tay để chống lại và lật đổ bộ máy đàn áp và lừa bịp khổng lồ của chủ nghĩa thực dân và các thế lực phản động đồng minh của nó. Câu hỏi đặt ra là: Bắt đầu từ tay trắng, sợi chỉ trở đi, thì “Cách mệnh trước hết phải có cái gì ?”. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Trước hết phải có Đảng cách mạng và học thuyết cách mạng. Đảng ấy, là Đảng Cộng sản Việt Nam. Học thuyết ấy, là chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì lợi ích của con người Hồ Chí Minh đã suốt đời để công sức xây dựng Đảng và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênnin, phát huy sức mạnh vô tận của con người trong sự nghiệp cách mạng. Cơ sở thực tiễn của nhân văn Hồ Chí Minh Cơ sở hoạt động thực tiễn Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước mang trong mình một dòng máu hòa quyện của hàng triệu người dân Việt Nam, hành trang Người mang theo đó là lòng yêu nước, thương dân, yêu con người đúng nghĩa. Trái tim Người cùng nhịp đập với muôn vàn trái tim của những người nô lệ mất nước, mất tự do trên toàn thế giới. Khát vọng giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người đang sục sôi, cháy bỏng trong tâm hồn của một vị lãnh tụ vĩ đại. Hiện diện trên các nước thuộc địa và các nước tư bản phát triển, Người đã chứng kiến tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa. Ở đâu có chủ nghĩa thực dân là ở đó có tàn ác, có vô nhân đạo, có dân tộc thuộc địa sống trong màn đêm u tối. Đằng sau các khái niệm tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền, dân quyền… là sự giả nhân giả nghĩa, phản bội, lừa bịp của chủ nghĩa đế quôc và là sự đau khổ tột cùng của nhân dân lao động bị áp bức bóc lột. Cứu nước và giải phóng dân tộc là mong muốn vô cùng lớn lao của Hồ Chí Minh, một con người có tâm hồn của một chiến sĩ nhiệt thành cách mạng một trái tim yêu nước thương dân sẵn sàng chịu hy sinh to lớn vì nước vì dân. Cả cuộc đời của Người cũng luôn đấu tranh không mệt mõi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình và cho dân tộc khác thông qua khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình”. Lý do như Người đã từng viết: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.[10] Bản án chế độ thực dân Pháp trên tinh thần luận tội kẻ thù đã xâm phạm quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân con người và dân tộc, không chỉ ở Việt Nam, Đông Dương mà còn ở cả châu Phi, châu Mỹ Latinh. Tội ác của chủ nghĩa thực dân được Người vạch trần tố cáo trong tác phẩm này là: Bóc lột bằng "thuế máu" đọa đày, coi rẻ mạng sống của những người "dân bản xứ" trên các chiến trường Châu Âu trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất để bảo vệ “công lí và tự do; Tàn bạo, dã man “đầu độc dân bản xứ bằng thuốc phiện, rượu cồn”; Gán vào cho người dân bản xứ bao loại sưu thuế “nặng oằn lưng”, công trái, phu phen tạp dịch khốn khổ; Là “chính sách ngu dân” để dễ bề cai trị; Là những luật lệ vô tội vạ, hết sức khắc nghiệt, cho phép các nhà cầm quyền hễ ngứa tay thì phạt vạ, tống tù và thảm sát đẫm máu đối với dân bản xứ... Bản án chế độ thực dân Pháp ra đời như một nguồn ánh sáng mới xé tan đám mây đen bao phủ trên đất trời Việt Nam và đất trời các nước thuộc địa khác. Tác phẩm ra đời, đáp ứng cả lý trí và tình cảm của hàng triệu quần chúng cách mạng ngưỡng vọng và khát khao một chân trời mới, nơi đó đất nước được giải phóng, người dân thoát khỏi kiếp nô lệ, dân tộc không còn bị áp bức bóc lột. Như người đi trong đêm tối tìm thấy ánh sáng dẫn lối, tác phẩm đã thu hút mạnh mẽ sự chú ý của nhiều lớp người tiến bộ đang mơ hồ, đang băn khoăn về một con đưòng giải phóng sáng sủa, tìm đến tương lai với một hướng đi đúng đắn để giải phóng dân tộc. Sau Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm Đây công lý ở Đông Dương, Người đã vạch trần cảnh địa ngục trần gian tối tăm mà thực dân Pháp đang đày đọa dân ta. Người cũng đã dành phần nhiều mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để vạch trần tội ác tầy trời của thực dân Pháp ở Việt Nam: Pháp đã hai lần bán rẻ nước ta cho Nhật, “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng...” Người chỉ rõ nguồn gốc của mọi niềm đau nỗi khổ của con người nô lệ mất nước và con người cùng khổ là chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã chỉ rõ con đường giải phóng của con người Việt Nam, góp phần chỉ rõ con đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa và của nhân dân lao động toàn thế giới. Sự nghiệp đổi mới và bài học của Hồ Chí Minh Từ năm 1975, đất nước được hoàn toàn giải phóng, chấm dứt thời kỳ chiến tranh, mở ra giai đoạn xây dựng hòa bình. Đảng và nhân dân ta đứng trước những nhiệm vụ lớn lao với muôn vàn khó khăn về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Kinh tế lâm vào khủng hoảng, đời sống nhân dân thiếu thốn, cùng cực. Về mặt chính trị, chủ nghĩa đế quốc và những phần tử phản động chưa cam chịu thất bại. Thêm vào đó là tình hình thế giới lại diễn ra không thuận lợi. Chế độ xã hội chủ nghĩa lần lượt sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Với di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, qua 15 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước, nhân dân ta đã nỗ lực và sáng tạo, đẩy nhanh được nhịp độ phát triển kinh tế. Mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra được toàn Đảng, toàn dân phấn đấu thực hiện. Đó là: “... nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc”. [11] Với những nỗ lực trên, Đảng ta bước đầu thực hiện lòng mong mỏi suốt đời của chủ tịch Hồ Chí Minh là đem lại cho nhân dân đời sống ấm no, hạnh phúc. Theo Hồ Chí Minh, đó là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng. Người đã từng dạy rằng: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” và rằng “ Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Trong quá trình đổi mới đất nước, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội cũng đã nảy sinh không ít những hiện tượng tiêu cực. Nền kinh tế thị trường đã phát huy tích cực của cá nhân, tinh thần sáng tạo của mọi người trong sản xuất và kinh doanh, vừa làm giàu cho đất nước, vừa cải thiện đời sống riêng tư. Song ở nhiều nơi, nhiều lúc đã nảy sinh không ít những con người cá nhân ích kỷ chỉ biết chạy theo đồng tiền, chỉ chú trọng đời sống vật chất, chỉ tìm mọi cách để hưởng thụ những thú vui thấp kém, bất chấp dư luận xã hội, chà đạp lên đạo đức và hủy hoại nhân phẩm của mình. Phải chăng những điều trên đây là hậu quả của nền kinh tế thị trường ? Là sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế- xã hội? Không lẽ cứ kinh tế đi lên là đạo đức xuống thấp? Những hiện tượng trên đây có sự tác động của hoàn cảnh khách quan, nhưng cũng có nguyên nhân từ thái độ chủ quan của con người trong đó có việc lãng quên những lời răng dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh về sự nghiệp và rèn luyện đối với con người. Gần đây, Đảng ta nêu lên khẩu hiệu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, chính là khái quát và thực hiện lời răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới, con người mới. Dân giàu và nước mạnh là mục tiêu phấn đấu của chúng ta hiện nay, nhưng mục đích đó vẫn chưa đủ. Dân giàu nước mạnh, nhưng con người còn phải phấn đấu cho một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nữa. Phấn đấu cho hạnh phúc của con người trong một xã hội công bằng Công bằng xã hội là khát vọng của con người và tác động to lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”. Có ý kiến cho rằng, để đạt được tăng trưởng kinh tế thì phải tạm thời hy sinh công bằng xã hội. Ý kiến ấy xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với bản chất chế độ xã hội phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ tư bản thì có thể tăng trưởng kinh tế mà vẫn không có công bằng xã hội. Trái lại, ở chế độ xã hội của chúng ta, cần phải thực hiện công bằng xã hội của chúng ta, cần phải thực hiện công bằng xã hội tương ứng với mỗi bước phát triển kinh tế, sao cho hai lĩnh vực này hỗ trợ lẫn nhau và tư tưởng “tất cả vì con người”. Trong nền kinh tế nhiều nhiều thành phần, có thành phần kinh tế và bộ máy hành chính sự nghiệp của Nhà nước, chế độ phân phối trong phạm vi này đương nhiên là phải theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Các chế độ tiền lương, đãi ngộ, khen thưởng mà nhà nước ta thực hiện đều hướng theo nguyên tắc ấy, dẫu rằng còn có những điều chưa hợp lý đang được thực hiện và uốn nắn. Tuy nhiên, hiện nay có một hiện tượng nhức nhối lương tâm, không thể chấp nhận, đó là tình trạng chênh lệch giữa một bên là những người lao động chân chính, những người có nhiều cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng cho Tổ quốc và một bên là bọn tham nhũng, mọt dân hại nước, làm ăn phi pháp, làm giàu bất chính, ăn cắp của công, tướt đoạt của nhân dân, ăn chơi sa đọa. Tội ác của bọn chúng đang gây nên lòng căm phẫn, cho giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, bôi đen các giá trị cao đẹp của chế độ xã hội của chúng ta. Đối với hạng sâu mọt, dòi mọ như bọn chúng, ngay từ ngày 3-10-1946, trong kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa đầu tiên, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Về việc Chính phủ liên khiết, thì chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các Ủy Ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao, chính phủ đã hết sức là gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị. Những kẻ ăn hối lộ đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.Chống tham nhũng và các tệ nạn đi liền với “quốc nạn” này rõ ràng là vấn đề nóng bỏng, cấp bách trong việc thực hiện công bằng xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, công bằng xã hội chấp nhận đảm bảo đồng thời lợi ích của người lao động lẫn lợi ích của các nhà đầu tư, chấp nhận bình đẳng của mọi thành phần kinh tế tuy vẫn khẳng định vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nhiệm vụ của chính sách xã hội là thống nhất các nhân tố ấy trong nhiệm vụ phát triển kinh tế và hạn chế các mặt tiêu cực, cố hữu của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, cũng như ảnh hưởng xấy đến truyền thống và bản sắc văn hóa của dân tộc. Đây là nhiệm vụ rất khó khăn, đòi hỏi cả khoa học lẫn nghệ thuật lãnh đạo và quản lý trong việc chế định và thực hiện các chính sách xã hội cụ thể trên con đường phát triển của đất nước. Và, tất cả đều được thể chế hóa bằng pháp luật. Nhà nước đã ban bố và còn tiếp tục ban bố các điều luật và các chính sách xã hội theo tư tưởng chỉ đạo trên. Như vậy công bằng xã hội được đảm bảo bằng pháp luật. Mọi công dân, mọi tầng lớp xã hội, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, đều được pháp luật bảo vệ. Như vậy là công bằng. Ai vi phạm pháp luật, không tuân thủ pháp luật thì bị pháp luật trừng phạt. Như vậy cũng công bằng. Giáo dục lý tưởng sống và giải pháp đối với vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay Giáo dục lý tưởng sông cho thế hệ trẻ hiện nay Thực trạng về lối sống của thế hệ trẻ hiện nay Một đất nước đã và đang phát triển luôn quan tâm đến sự phát triển của thanh thiếu niên, nhi đồng– thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước .Những truyền thống văn hóa ngàn đời liệu có được kế thừa, những thành quả kinh tế ngày hôm nay liệu sẽ phát triển hay tụt hậu trong tương lai….Tất cả phụ thuộc vào giới trẻ ,phụ thuộc từ sự định hướng và giáo dục thanh niên học sinh từ tấm bé .Và giờ đây chúng ta hãy thử cùng nhau nhìn nhận ,những suy nghĩ ,lối sống và ước mơ của thanh niên Việt Nam ,của những chủ nhân tương lai được xã hội kì vọng, như thế nào? Trong thời đại bùng nổ thông tin-kỉ nguyên của khoa học và công nghệ, giới trẻ hiện nay đã được tiếp xúc với khoa học- kĩ thuật từ rất sớm và trong đó có thể nói Internet là hình thức phổ biến nhất. Thế nhưng tình hình và mục đích tiếp cận những phát minh mới, những phương tiện tối tân của giới trẻ hiện nay là gì ?Liệu chúng đã được sử dụng một cách triệt để cho việc phát triển của thế hệ tương lai hay không? Khách hàng ở các quán Internet đa phần là thanh thiếu niên. Họ dùng Internet để chat (tán gẫu), trong đó phần lớn sử dụng phần mềm Yahoo!Messenger (YM), số còn lại sử dụng các dịch vụ ICQ, AIM và các phòng chat công cộng. Khó tưởng tượng là trong số những thanh thiếu niên thao tác "chat chit" trên YM nhanh như chớp với những ngón tay thoăn thoắt, không ít người không biết đến trình duyệt web là gì. Một số biết thì chỉ quanh quẩn truy cập một vài website rất hạn chế. “Chẳng được ai hướng dẫn”, đó là tình trạng chung của thanh thiếu niên hiện nay đối với công nghệ thông tin nói chung và Internet nói riêng. Chúng ta thường nói nhiều tới tầm quan trọng của công nghệ thông tin, nhu cầu nối mạng toàn cầu để hội nhập và phát triển, thậm chí coi việc giới trẻ ngày càng quan tâm và sử dụng Internet nhiều là một biểu hiện của sự nâng cao trình độ tin học và phát triển giáo dục. Nhưng dường như chúng ta đang "quá tin tưởng" hay đúng hơn là phó mặc cho khả năng tự tìm tòi của thanh thiếu niên.” Đó là những gì mà Hanoisofware đã nhận định về thực trạng sử dụng Internet hiện nay của giới trẻ Việt Nam. Internet quả là một kho dữ liệu và kiến thức vô giá nhưng nó cũng là con dao hai lưỡi, có thể làm hỏng thanh thiếu niên nếu không có sự quản lí và hướng dẫn chặt chẽ .Không ít những người trẻ tuổi có ý thức đã tự nâng cao vốn kiến thức của mình bằng con đường đó. Nhưng rất nhiều kẻ ham mê những thứ vô bổ, sử dụng mạng với mục đích không chính đáng để rồi trở nên hư hỏng, phí phạm thời gian và tiền bạc. Ngoài vấn đề trên, giới trẻ Việt Nam còn vướng vào một số vấn đề khác và trong đó có “Tầm hiểu biết về giới tính và an toàn tình dục”. Nhân ngày dân số thế giới 11/7, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em vừa công bố kết quả thống kê, báo động tình trạng giới trẻ Việt Nam ngày nay thiếu kiến thức, kém hiểu biết về các kỹ năng sống cơ bản liên quan đến giới tính, an toàn tình dục, và sức khoẻ sinh sản. Khảo sát cho thấy trên 22% thanh thiếu niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đáng quan ngại hơn, khoảng 30% trường hợp nạo phá thai hiện nay là các phụ nữ trẻ, chưa lập gia đình.Đó quả là những con số đáng sợ .Hơn thế nữa ,thống kê đó là hoàn toàn có thật và tương đối chính xác. Ngoài ra ,vẫn còn những số liệu cụ thể khác mà người thể nêu rõ ở đây. Tuy nhiên, đó là những con số biết nói về thực trạng trong đời sống của giới trẻ Việt Nam. Họ vẫn còn rất mơ hồ trong các vấn đề này, không hiểu và không lường trước được những hậu quả. Họ không trang bị cho mình những mảng kiến thức đó, dẫn đến những con số thống kê đáng giật mình về quan hệ trước hôn nhân và nạo phá thai trong giới trẻ như thế. Thậm chí có nhiều cô gái đến tháng thứ 3 mới nhận biết mình mang thai. Nhà trường dù đã có trang bị kiến thức(tuy ít) nhưng ngay chính bản thân các bạn trẻ cũng không tự tìm hiểu sách báo. Các bậc phụ huynh dù có khuyên con giữ gìn nhưng sự giáo dục này cũng không đi tường tận vào vấn đề vì e ngại. Có báo chí truyền thông cũng có tác động nhưng nhiều bạn trẻ cũng không quan tâm và phớt lờ, vả lại việc tuyên truyền cũng bị giới hạn, chưa thật sự rộng khắp. Hoặc giả sử nếu có những thanh niên chủ động tìm hiểu thì cũng sẽ vấp phải những rào cản thái độ và sự cách biệt giữa các thế hệ . Một nguyên nhân dẫn đến điều đó là sự ít tiếp xúc, ít tìm hiểu và thông cảm giữa giới trẻ và người lớn. Nó xuất phát từ “Thế hệ cao niên đã thấm nhuần văn hóa Việt Nam nặng tinh thần Khổng Giáo, quen với cung cách trên kính dưới nhường. Thế hệ trẻ hấp thụ tinh thần dân chủ Tây phương, chủ trương sự bình đẳng. Vì thế trong những cuộc hội thoại, những người lớn tuổi có thể bị ngỡ ngàng thất vọng cho rằng lớp trẻ đã mất đi sự kính trọng đối với các bậc cao niên. Người trẻ có thể cho rằng thế hệ già độc đoán và cố chấp. Trong gia đình và ngoài xã hội, những va chạm này dễ xảy ra. Chỉ cần tất cả những lớp tuổi ý thức được hiện tượng khác biệt văn hóa để có thể ngồi lại với nhau. Hơn lúc nào hết sự cảm thông và đoàn kết giữa các thế hệ Việt Nam hải ngoại là yếu tố thiết yếu để xây đắp một gia đình hạnh phúc, để củng cố cộng đồng và duy trì nền văn hóa Việt Nam.” .Thế nên không những gây phát sinh những mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn các thế hệ trong xã hội mà còn dẫn đến tình trạng thiếu vốn hiểu biết và kĩ năng sống cần có cho giới trẻ Việt Nam ngày hôm nay. Mỗi thời, với điều kiện lịch sử của mình, đều có một sứ mệnh nhất định. Thanh niên chúng tôi ý thức được rằng chúng tôi có sứ mệnh làm cho bản thân mình, gia đình mình, nhân dân mình được sống một cuộc sống văn minh trong ấm no và hạnh phúc; và chúng tôi tin rằng chúng tôi có quyền lựa chọn đường đi cho thế hệ mình. Trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử này, bài học của các thế hệ đi trước và của những dân tộc tiến bộ luôn là những bài học vô giá. Chúng tôi sẵn sàng học hỏi, tiếp thu một cách có chọn lọc để biến những di sản chung này thành của mình, để phục vụ mục đích của mình. Mọi suy nghĩ, hành động đều bắt nguồn từ ý nghĩ .Ý nghĩ, tư tưởng là nền móng cơ bản dẫn việc làm, lối sống của thanh niên. Mỗi một thời đại, mỗi một hoàn cảnh lịch sử mà thế hệ thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng, những lý tưởng sống và suy ngẫm riêng. Chúng ta không bác bỏ, không phủ nhận trong quá khứ lịch sử hào hùng, thế hệ thanh niên ngày ấy đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của đất nước. Đó là lý tưởng muốn được chiến đấu, hi sinh cho độc lập, tự do Tổ quốc, cho tự hào dân tộc .Nhưng chúng ta không thể lấy thước đo của ngày hôm qua để áp dụng vào ngày hôm nay; không thể đem thế hệ trước so sánh, áp đặt lý tưởng cho thế hệ sau. Đơn giản vì mỗi thế hệ có một môi trường riêng, một nhận thức, một hòan cảnh và một sứ mệnh riêng. Vì vậy “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá khứ!”(Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười). Ngược lại với những phê phán, nhận xét về thái độ “bàng quan với thời cuộc ”, thanh niên hiện nay đã khẳng định tiếng nói và lý tưởng sống của mình. Đó là ra sức phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu ,nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh “theo đường lối mới do Đảng và nhà nước ta khởi xướng, lãnh đạo”. Nếu người chiến sĩ khi xưa đấu tranh vì khát vọng cháy bỏng, quét sạch quân thù ,đem lại hòa bình cho đất nước ,thì người thanh niên hôm nay cũng tự gắn mình với nhiệm vụ đấu tranh chống đói nghèo lạc hậu, nuôi dưỡng bản thân, gia đình, đưa đất nước phát triển và hội nhập cùng quốc tế. Đã có những phong trào, những đợt thi đua noi gương, sống như anh Thạc, chị Trâm được tổ chức bởi thanh niên. Hai con người, hai chiến sĩ của thời đại trước đã là nên sức hút, tạo thành một làn song mạnh mẽ trong giới trẻ hiện nay. Không thể phủ nhận là họ (thanh niên ngày nay) tìm thấy ở những người thanh niên lớp trước sự đồng cảm ở tinh thần tình nguyện, cống hiến, xả thân và điều sâu sắc hơn, có những sự rung động của tuổi trẻ ngày nay trước vẻ đẹp cao cả của cuộc chiến tranh chính nghĩa, của chân lý mà dân tộc ta đã tìm thấy được trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc Việt Nam. Dù thế nhưng một vấ đề luôn có hai mặt khía cạnh, chúng ta không bác bỏ vãn có nhiều thanh niên ngày nay sống buông thả, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, sống cho bản thân mà quên đi những ích lợi chung của tập thể ,coi nhẹ những giá trị vô giá của lịch sử và văn hóa dân tộc….Họ sống thiếu lý tưởng, thiếu đi nhận thức về vai trò của bản thân giữa xã hội, gia đình. Tuy nhiên, hình mẫu ấy chỉ là thiểu số .Đó không phải là bản chất và lý tưởng cơ bản của thanh niên hiện nay. Bác Hồ đã dạy rằng: “Thanh niên không một phút giây được quên lý tưởng của mình là phấn đấu cho nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội”. Câu nói ấy, ai còn nhớ và ai đã quên? Cuộc sống đã thay đổi và lý tưởng trong mỗi thời đại cũng đổi thay ít nhiều. Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay có nhiều mặt : lý tưởng chính trị, lý tưởng nghề nghiệp, lý tưởng thẩm mĩ,v…v..thế nhưng nó vẫn luôn lấy lời dạy ấy của Bác làm cốt lõi, nền tảng để phát triển và hướng đến. Giáo dục lý tưởng sống cho thế hệ trẻ hiện nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định thanh niên là lực lượng trụ cột của sự nghiệp đổi mới. Bàn về động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã khẳng định “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên”. Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng khóa X yêu cầu “Cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học-công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại”. Thanh niên ngày nay là lớp người sinh ra và trưởng thành sau chiến tranh, được sống trong những điều kiện vật chất và tinh thần đầy đủ hơn, tuy rất nhạy cảm với cái mới, được đào tạo bài bản, có tri thức, nhưng vốn sống và sự từng trải chưa nhiều, trước những tiêu cực và cám dỗ của nền kinh tế thị trường, trước những biến động về chính trị quốc tế, đặc biệt do ảnh hưởng tiêu cực của sự suy thoái, biến chất của một số không nhỏ cán bộ, đảng viên, một bộ phận thanh niên có sự dao động, khủng hoảng lòng tin, lý tưởng cách mạng. Thực trạng này đòi hỏi Đảng phải coi trọng giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho thanh, thiếu niên. Tinh thần yêu lao động và lao động sáng tạo với ý thức trách nhiệm và hiệu quả là nét đẹp truyền thống, là lẽ sống và lý tưởng của tuổi trẻ Việt Nam, xuyên suốt các thời đại lịch sử. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, lao động với tinh thần cần cù, kỹ thuật, công nghệ cao, sáng tạo, năng suất và hiệu quả không thể tách lý tưởng về một nước Việt Nam độc lập và CNXH. Phát huy truyền thống yêu lao động chính là phương thức thực hiện lý tưởng và hoài bão của tuổi trẻ Việt Nam. Bài học kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, muốn trở thành một quốc gia giàu mạnh với một nền sản xuất hiện đại, phải có lớp lao động trẻ, lao động có kỹ thuật cao, sáng tạo, có ý thức tập thể, kỷ luật lao động, phấn đấu vì lợi ích chung. Đoàn kết, hiệp lực vì nghĩa lớn là nét đẹp truyền thống của dân tộc ta. Sinh thời Bác Hồ đã xây dựng khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam trên nền tảng liên minh công, nông, trí thức vững chắc, Bác đã kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp vô địch của cách mạng Việt Nam. Ngọn cờ tư tưởng đại đoàn kết của Bác Hồ chính là sức mạnh để dân tộc ta hội nhập và phát triển, mở rộng và nâng khối đại đoàn kết lên một tầm cao mới. Trong thời đại ngày nay, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trở thành nhân tố ổn định, động lực của phát triển. Tuổi trẻ Việt Nam phải coi truyền thống đoàn kết là một vốn quý, một nguồn tài sản và sức mạnh v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài tiểu luận nội dung cập nhật - hay- TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN ĐÓ VÀO THỜI KỲ ĐỔI MỚI.doc
Tài liệu liên quan