Tiểu luận Tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN NỘI DUNG 2

Chương I. Sự hình thành, phát triển và nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực. 2

1. Tư tưởng phân chia quyền lực ở HyLạp - Lama cổ đại. 2

1.1. Tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước Hy lạp - Lama cổ đại. 2

1.2. Tư tưởng phân chia quyền lực của Aristotle. 3

2. Tư tưởng phân chia quyền lực ở Tây Âu thời kỳ cách mạng tư sản. 3

2.1. Tư tưởng phân chia quyền lực của J.Locke (1614 - 1657) 3

2.2. Tư tưởng phân chia quyền lực của Montesquieu (1689 - 1775) 4

Chương II. Sự thể hiện và áp dụng tư tưởng phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước một số nước tư bản. 6

1. Sự phân quyền mềm dẻo ở các nước chính thể cộng hoà đại nghị. 6

2. Sự phân quyền cứng rắn trong chính thể cộng hoà Tổng thống. 7

3. Sự phân quyền trong chính thể cộng hoà hỗn hợp. 7

PHẦN KẾT LUẬN 9

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 9

 

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Lord Acton một sử gia người Anh sống vào cuối thế kỷ IXX đầu thế kỷ XX, trong một bức thư gửỉ giám mục ManDell Creighton năm 1998 đã viết: "Quyền lực có xu hướng dẫn tới đồi bại, quyền lực tuyệt đối thì sẽ có xu hướng đồi bại tuyệt đối". Sẽ còn nguy hiểm hơn nếu phần lớn hoặc tất cả quyền lực Nhà nước tập trung trong một người hay một nhóm người nên Nhà nước phải phân chia quyền lực. Do đó tư tưởng phân chia quyền lực đã được hầu hết các nước tư bản trên thời gian thừa nhận và áp dụng trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước. Trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử thời đại mình những người sáng lập ra thuyết phân chia quyền lực (Loccơ, Môngtecxkiơ) cho rằng cần phải hạn chế sự độc quyền bằng việc không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào một cơ quan nhất định, bằng sự kiểm soát và khống chế lẫn nhau giữa các hệ thống cơ quan nhà nước khác nhau. Theo họ, nên phân quyền lập pháp, hành pháp và xét xử cho ba hệ thống cơ quan nhà nước. Mặt tích cực của học thuyết này thể hiện ở chỗ nó ngăn được sự chuyên quyền rất dễ phát sinh ở xã hội mà sự thống trị thuộc về thiểu số ít người trong xã hội. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về tư tưởng này nên em đã chọn đề tài "Tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước" làm bài tập lớn học kỳ. Do kiến thức cũng như khả năng có hạn nên ở đây em chỉ bàn về hai vấn đề của tư tưởng này là. 1. Sự hình thành và nội dung tư tưởng phân chia quyền lực 2. Việc áp dụng tư tưởng này ở các nước tư bản hiện nay. PHẦN NỘI DUNG Chương I. Sự hình thành, phát triển và nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực. 1. Tư tưởng phân chia quyền lực ở HyLạp - Lama cổ đại. 1.1. Tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước Hy lạp - Lama cổ đại. Ở Hy lạp: Mầm mống của tư tưởng phân chia quyền lực được thể hiện qua cuộc cải cách bộ máy nhà nước Athens của Ephialtes (Thế kỷ V TCN) và Pericles (495 - 429 TCN). Thế kỷ thứ V TCN chính quyền ở Athens về tay những người dân chủ cấp tiến mà đứng đầu là Ephialtes. Ông nổi tiếng là "Một nhà chính trị trung thành với tổ quốc và cương trực không ai mua chuộc được" (Aristore). Với mong muốn dân tự do phải làm cho đất nước, tất cả quyền lực thuộc về dân chúng nên năm 462 TCN được sự trợ giúp của Pericles, Ephialtes đã tiến hành một cuộc cải cách dân chủ nhằm đánh đổ thế lực của Hội đồng trưởng lão: đây là cơ quan nắm quyền lực chủ yếu của Athens trước đây. Ông đã đưa ra và thông qua tại hội nghị công dân một đạo tước hết mọi quyền chính trị và tư pháp của hội đồng trưởng lão (trừ quyền xét xử các vụ án tôn giáo) và trao quyền ấy cho các cơ quan dân chủ: quyền lập pháp thuộc về hội nghị nhân dân, quyền hành pháp thuộc về hội đồng nhân dân, quyền tư pháp thuộc về toà án nhân dân. Sau khi Ephialtes chết do bị ám sát, phải dân chủ tiếp tục nắm quyền mà đại diện là Pericles "là người siêu viết nhất của Athens, người thứ nhất về mọi cái và về nói và hành động" đã tiếp tục một cách xuất sắc cải cách của Ephialtes theo chiều hướng củng cố và mở rộng nền dân chủ ở Athens. Ở La mã tình hình cũng diễn ra tương tự ở Athens. 1.2. Tư tưởng phân chia quyền lực của Aristotle. Aristotle là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại" (C.Mác) là "khối óc toàn diện nhất trong số những nhà triết học Hy lạp" (Ph. Ăngghen) là "bá chủ về tư tưởng" (Gomperz). Ông đã quan niệm rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các toà án. Tuy nhiên, tư tưởng của Aristotle mới chỉ dừng ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Sau Aristotle, Polybe (201 - 120TCN) một "nhà Hy lạp Latinh hoá" ngoài sự phân biệt như trên còn nêu lên tính độc lập tương đối cần có quyền lực và hoạt động của mỗi cơ quan. 2. Tư tưởng phân chia quyền lực ở Tây Âu thời kỳ cách mạng tư sản. 2.1. Tư tưởng phân chia quyền lực của J.Locke (1614 - 1657) J.Locke (1614 - 1657), một nhà triết học Anh là người đã khởi thảo học thuyết phân quyền. Ông chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp, và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, quyền lập pháp phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải hợp định kỳ để thông qua các đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các bộ trưởng, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào đối với nghị viện để nhằm không cho phép nhà vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm các quyền tự nhiên clủa công dân. Nhà vua cũng thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hoà bình và đối ngoại. 2.2. Tư tưởng phân chia quyền lực của Montesquieu (1689 - 1775) Những luận điểm phân quyền của J.Locke được nhà khai sáng người Pháp là Montesquieu (1689 - 1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nói đến thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông. Montesquicu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó. Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu một khi quyền lực được tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn. Từ đó, Montesquieu cho rằng, tổ chức quyền lực nhà nước theo phương thức phân chia quyền lực nhà nước là để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, bảo đảm quyền tự do của con người, Montesquieu nói "khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão thì không còn tự do nữa; vì người ta sợ rằng chính ông ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có sức mạnh của kẻ đàn áp". Montesquieu cho rằng quyền lực tối thượng phải được phân chia thành ba hình thái quyền lực cơ bản là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Không có khái niệm quyền lực chính trị tối thượng. Ba quyền này phải phân và lập, nghĩa là chia tách ra khỏi nhau và độc lập với nhau, không quyền nào hơn quyền nào. Ba quyền đó được giao cho những cơ quan khác nhau, độc lập với nhau có phương thức hình thành riêng, cách thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng. Tương ứng với ba quyền đó là ba cơ quan: cơ quan lập pháp là quốc hội, cơ quan hành pháp là chính phủ, cơ quan hành pháp là toà án. Thuyết phân quyền quan niệm rằng, mỗi cơ quan đại diện quốc gia thi hành một nhiệm vụ, một quyền hạn và chỉ có nhiệm vụ quyền hạn ấy mà thôi. Cơ quan lập pháp chỉ có quyền lập pháp, chỉ có nhiệm vụ làm luật. Cơ quan hành pháp chỉ có quyền hành pháp, nghĩa là nhiệm vụ thi hành luật lệ. Cơ quan tư pháp chỉ có quyền tài phán, nhiệm vụ xét xử để áp dụng pháp luật. Phân chia quyền hạn thôi chưa đủ, mà phải có sự độc lập giữa các cơ quan. Nghĩa là các cơ quan không có hành động hỗ trợ nào, Quốc hội không có quyền ghì đôố với chính phủ như chất vấn, tín nhiệm hay bất tín nhiệm các thành viên của chính phủ. Ngược lại chính phủ không được tham gia thảo luận, không có quyền ấn định các kỳ họp, hoặc giải tán quốc hội. Trái lại có sự cô lập hoàn toàn giữa các cơ quan thẩm quyền trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Một khi tam quyền đã được phân lập rồi thì vấn đề tiếp theo là làm sao để ba quyền đó kiểm soát lẫn nhau. Để tránh tập trung quyền lực vào tay một hay một nhóm người thì cần phải có một cơ chế kiểm soát quyền lực, mà khả thi nhất là đúng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Như vậy người ta sẽ tránh được rủi ro là: một quyền lực mạnh quá sẽ có tham vọng trở nên độc đoán vì rằng kinh nghiệm vĩnh viễn cho thấy: ai có quyền cũng sẵn sàng lạm quyền. Do đó thuyết phân quyền của Montesquiecu đặt vấn đề: "Phải làm thế nào cho cái việc quyền hành ngăn chặn hành trở nên một sự dĩ nhiên". Thuyết phân quyền của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức nhà nước của các nước tư bản. Sau Montequieu, cũng có một số tác giả đề cập đến sự phân quyền như Rousseau, Emmanull Kant song có lẽ không ai đề cập đến tư tưởng phân quyền một cách chi tiết cụ thể và toàn diện như ông. Chương II. Sự thể hiện và áp dụng tư tưởng phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước một số nước tư bản. Thực tế lịch sử đã chứng minh, sự phân quyền không thể thi hành dưới một thể thức cô lập hoàn toàn các quyền vì cái thế cô lập đó chỉ đưa đến tình trạng bế tắc hay tranh chấp giữa hành pháp và tư pháp. Vì vậy, việc áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực vào thực tế có sự biến dạng rất lớn tuỳ theo từng nhà nước. Mức độ tính chất và đặc điểm của sự thể hiện và áp dụng tư tưởng ở các nước này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Bởi vậy ở các nước tư sản việc áp dụng tư tưởng này có các mức độ cứng rắn, mềm dẻo, và trung gian giữa hai mức độ. 1. Sự phân quyền mềm dẻo ở các nước chính thể cộng hoà đại nghị. Điều đó thể hiện ở chỗ hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có liên hệ mật thiết, thường xuyên với lập pháp do sự chịu trách trước lập pháp và sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này, lập pháp có thể lật đổ hành pháp và ngược lại hành pháp có thể giải tán lập pháp trước thời hạn do sự chịu trách nhiệm trước lập pháp và sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này. Nguyên thủ quốc gia chỉ là hành pháp tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực thuộc.Thủ tướng và Thủ tướng mới phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không hoàn toàn độc lập trong tổ chức, hoạt động với lập pháp. Đại diện tiêu biểu cho hình thức này là hai nước Anh và Đức. Ưu điểm: Dễ tạo ra sự bình ổn cho đời sống chính trị đất nước vì giữa lập pháp và hành pháp có mối liên hệ thường xuyên và chung nhân viên nên ít có sự bất đồng ý kiến, mâu thuẫn với nhau. Nhược điểm: Không bảo đảm sự độc lập sự cạnh tranh giữa lập pháp và hành pháp, nguyên thủ quốc gia không có thực quyền nên trong trường hợp khẩn cấp khó có thể đưa ra những quyết định nhanh nhạy kịp thời phù hợp với đòi hỏi tình hình có lợi cho quốc gia. 2. Sự phân quyền cứng rắn trong chính thể cộng hoà Tổng thống. Sự phân quyền cứng rắn ở đây là các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau trong hoạt động nhờ không có sự chung nhân viên giữa chúng, đồng thời có thể ngăn cản, kiềm chế lẫn nhau theo nguyên tắc "quyền lực ngăn cản quyền lực". Quyền hành pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia, hành pháp không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp và sự phân quyền được ghi nhận trong Hiến pháp như ở Mỹ. Tổng thống có quyền phủ quyết những dự luật và những quyết định của hai viện của quốc hội, nhưng tổng thống chỉ được ký kết các hiệp ước với ý kiến và sự thoả thuận của thượng viện thông qua sự chấp thuận của 2/3 số nghị sĩ có mặt còn hệ thống toà án được pháp luật trao cho những quyền hoàn toàn độc lập để giữ thế "kiềng ba chân" trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, độc lập với hành pháp và tư pháp trong hoạt động. Ưu điểm: Mang lại sự quyết đoán sự tập trung quyền lực và sự độc lập cao cho nguyên thủ quốc gia và bộ máy hành pháp. Cả lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có thể chuyên chú và thu hẹp hoạt động vào việc thực hiện chức năng của mình, báo đảm hiệu quả quản lý và điều hành cao cho đất nước. Nhược điểm: Để dẫn đến mâu thuẫn căng thẳng khi quốc hội và tổng thể bất đồng ý kiến. Sự ổn định về chính trị của đất nước và hiệu quả hoạt động đối nội, đối ngoại của nhà nước phụ thuộc vào tài năng của tổng thống. 3. Sự phân quyền trong chính thể cộng hoà hỗn hợp. Cộng hoà hỗn hợp là dạng chính thể có các đặc trưng của cộng hoà đại nghị lẫn cộng hoà tổng thống. Do vậy, trong tổ chức bộ máy của các nhà nước này, tư tưởng phân quyền được áp dụng ở mức độ trung gian giữa cứng rắn và mềm dẻo, với đặc trưng cơ bản là sự độc lập của hành pháp với lập pháp cao hơn trong chính thể đại nghị, song lại thấp hơn trong chính thể cộng hoà tổng thống vì Chính phủ và Quốc hội có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau trong quá trình làm luật. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Quốc hội có thể lật đổ chính quyền. Ngược lại, Quốc hội cũng có thể giải tán trước thời hạn. Đại diện tiêu biểu cho hình thức này là nước Pháp. Ưu điểm: Bảo đảm tính thực quyền năng động quyết đoán và độc lập trong hoạt động của nguyên thủ quốc gia nhờ đó tăng quyền lực vai trò của hành pháp, khẳng định được năng lực cá nhân của nguyên thủ quốc gia, đồng thời tạo ra sự độc lập, cạnh tranh và nâng cao vai trò, tác dụng kiềm chế lẫn nhau trong hoạt động giữa lập pháp hành pháp và tư pháp với nhau. Nhược điểm: Có thể dẫn tới sự biến động lớn trong đời sống chính trị của đất nước khi lập pháp và hành pháp bất đồng lớn và mâu thuẫn gay gắt với nhau. PHẦN KẾT LUẬN Trong đề tài của mình em đã nêu rõ hai vấn đề đó là: 1. Sự hình thành phát triển nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực 2. Việc áp dụng tư tưởng này ở các nước tư bản hiện nay. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng đối với lịch sử phát triển nhân loại nói chung cũng như lịch sử phát triển của các tư bản nói riêng. Do đây là một đề tài khá rộng và chưa có nhiều kiến thức nên bài làm không tránh khỏi sai sót mong được sự đóng góp của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật. Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2008 2. Nguyễn Thị Hồi, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb, Tư pháp, Hà nội, 2005. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ- Tư tưởng phân chia quyền lực Nhà nước.doc