MỤC LỤC
Đề mục Trang
I. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử . 1
Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi Tử . 1
1. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử . 1
2. Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi . 1
Một số hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi . 3
3. Tư tưởng pháp gia của Hàn Phi . 3
II. Vận dụng tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử vào công cuộc xây dựng xã hội 
Việt Nam hiện nay . 6
Những hạn chế của đường lối pháp trị của Hàn Phi đem lại bài học kinh nghiệm cho 
việc xây dựng xã hội và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam . 9
Kết luận . 12
Tài liệu tham khảo . 13
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 23960 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử - Sự vận dụng tư tưởng này trong xây dựng xã hội Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................ 13 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang iii 
 MỞ ĐẦU 
Hơn 15 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được nhiều thành 
tựu quan trọng. Đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, 
văn minh. 
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, 
chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc 
biệt là đổi mới hệ thống chính trị XHCN, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền 
của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ yêu cầu đó, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX 
đã khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân 
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống 
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện 
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật". 
Trong quá trình kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả 
hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng và 
học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì những 
tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương Đông và phương Tây, đều là sản 
phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch sử. Chúng có giá trị 
nhất định trong việc giúp chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu để xây dựng và 
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, 
thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử, một trong những tư tưởng chính trị - xã hội nổi bật 
trong thời kỳ Trung Quốc cổ đại, đã để lại nhiều kinh nghiệm lịch sử to lớn đối với quá 
trình thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước. 
Xuất phát từ những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu 
thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là thực sự cấp thiết. Đó là lý do mà tôi thực hiện đề tài: 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang iv 
"Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử và sự vận dụng tư tưởng này vào xây dựng xã hội 
Việt Nam hiện nay" làm đề tài tiểu luận của mình. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang v 
TÓM TẮT 
 Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng pháp trị mà đại biểu xuất 
sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát 
triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng pháp trị là 
đề cao vai trò của pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. 
Tác phẩm Hàn Phi Tử là một tác phẩm độc đáo, và là công trình quan trọng nhất 
của chính trị học Trung Hoa, là một trong những tác phẩm đầu tiên của chính trị học 
thế giới. 
Về tư tưởng nó xác lập trường phái pháp gia, một trong bốn trường phái lớn 
nhất của Trung Quốc (Nho, Pháp, Mặc, Đạo). Nó là một trong những công trình cực kỳ 
hấp dẫn, viết cách đây 2.300 năm nhưng ai cũng giật mình về tính thời sự của nó, ta có 
cảm tưởng tác giả là người hiện nay, nói bằng ngôn ngữ và cách lý luận hôm nay về 
cách quan hệ giữa người với người, không chỉ ở Trung Hoa mà cả thế giới, trong đó có 
Việt Nam. 
Đó là một con người có đầu óc lỗi lạc của Trung Hoa và của xã hội loài người. 
Ngày nay, chúng ta nghiên cứu tư tưởng Hàn Phi vẫn thấy những tác nhân hợp lý của 
nó, vẫn đầy tính thực tiễn trong đời sống xã hội, trong ứng xử giữa người với người, 
trong quản lý và thuật trị mới. 
Dù trải qua cả một thời gian dài trong lịch sử nhân loại, nhưng đến nay tư tưởng 
pháp trị của Hàn Phi cũng đáng để cho mọi người suy ngẫm. 
Tư tưởng của ông tồn tại lâu như vậy đó là vì nó có tính giáo dục sâu sắc, dạy 
đời, dạy người sống tốt đời đẹp đạo, có lý có tình, trên cơ sở vận dụng một cách linh 
hoạt vào thực tiễn cuộc sống. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 1 
TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA 
HÀN PHI TỬ 
I. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử 
 Hoàn cảnh lịch sử và cuộc đời của Hàn Phi Tử 
1. Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử 
Lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất: Xuân Thu và 
Chiến Quốc. 
Thời Xuân Thu (770 - 403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, đây chính là thời 
kỳ sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551 - 479 TCN). 
Thời Chiến Quốc (403 - 221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương, tới khi nhà Tần 
diệt nhà Tề thống nhất đất nước, đó là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN). 
So với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn định hơn về chính trị, 
nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân Thu, công cụ sản xuất và khí giới 
chủ yếu là bằng đồng. Sắt bắt đầu được dùng cuối thời kỳ này và trở nên thông dụng vào 
thời Chiến Quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng đất đai nông nghiệp, tăng năng suất lao 
động. Đây là thời kỳ đạo đức suy đồi, người ta chỉ tìm mọi cách để tranh lợi. Quan lại 
tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ lạc; chiến tranh kéo dài liên miên khiến cho đời sống 
của nhân dân càng thêm đói khổ cùng cực. Trước tình cảnh xã hội như vậy, tầng lớp 
quý tộc và tầng lớp trí thức có sự chia rẽ về tư tưởng. 
2. Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi 
Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị đã phân tích những ưu điểm, hạn chế của 
Quản Trọng, Ngô Khởi, Bạch Lý Hề, Thận Đáo và tổng kết, hoàn thiện thành học 
thuyết pháp trị của mình. Học thuyết đó dựa trên ba nội dung cơ bản “pháp, thuật, thế”. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 2 
Ông đồng tình với Tuân Tử cho rằng, con người ta có tính ác, nhưng lý giải về 
vấn đề lợi ích. Việc cai trị phải căn cứ vào lợi ích để thưởng hay phạt. 
+ Pháp 
Luật do vua ban ra, trăm quan giám sát, nhân dân thực hiện. Luật phải đúng đắn 
phù hợp, công khai trên dưới đều biết. Tất cả cứ đúng mực thước, đúng pháp luật mà 
làm thì xã hội sẽ ổn định. 
+ Thuật 
Là nghệ thuật, thủ thuật trị nước vua phải luôn cảnh giác với người xung quanh, 
biết sử dung người đúng lúc, đúng chỗ, đúng khả năng. Vua phải sáng suốt, không để 
lộ sự yêu ghét để quần thần lợi dụng. 
Dùng thuật để biết rõ người ngay kẻ gian, để điều khiển bề tôi. Thực chất đó là 
thủ đoạn của người làm vua để điều khiển các quan lại, phải giữ gìn pháp luật và tuân 
theo mệnh lệnh. 
+ Thế 
Là uy thế quyền lực của người làm vua. Vua phải triệt để sử dụng quyền của 
mình để trị nước. 
Quyền lực phải tập trung tuyệt đối vào tay nhà vua, không được trao quyền cho 
bất cứ ai, phải dùng pháp luật để củng cố quyền lực. 
Nếu chỉ có pháp luật và thuật mà thiếu quyền lực (thế) để cưỡng bức thì cũng 
không thể cai trị được. 
+ Pháp, thuật và thế có quan hệ chặt chẽ cho nhau, bổ sung cho nhau, trong đó 
pháp là trung tâm, thuật và thế là điều kiện để thực hành pháp luật. 
+ Thưởng, phạt là công cụ để thi hành pháp luật. Phạt nặng để răn đe kẻ xấu, 
thưởng hậu để khuyến khích, động viên mọi người làm việc. Thưởng, phạt nghiêm 
minh, thỏa đáng mới bảo vệ được pháp luật. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 3 
+ Phủ nhận thần quyền. 
 Một số hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi 
Pháp gia chỉ chú trọng đến hành chính, pháp luật và làm thế nào để quốc gia phú 
cường chứ không giáo dục dân, bất chấp nguyện vọng của dân, ông bảo vệ người giàu 
có và giai cấp quý tộc. 
Ông chỉ nhìn thấy con người ở góc độ vụ lợi, cho đến nhà nước, theo ông cũng 
chỉ quy về chủ nghĩa thực dụng, không thấy được lý tưởng cao đẹp và sẵn sàng quên 
mình cho lý tưởng ấy của những con người có tâm có đức. 
Ông tuyệt đối hóa pháp luật ở những khía cạnh biểu hiện cụ thể của nó, mà 
không thấy được còn có những công cụ khác kết hợp để trị nước, nói như người 
phương Đông là "thấu tình, đạt lý". 
Lý thuyết của ông không thể thực hiện được nguyên nghĩa của nó, khi mà xã hội 
còn tổ chức theo kiểu quân chủ chuyên chế vì theo Hàn Phi, hình phạt không áp dụng 
đối với vua và thiên tử. Vì vậy, Hàn Phi cũng không thể tìm ra được cơ chế bắt buộc 
nhà vua phải đề phòng cái họa mà ông thấy từ trước. 
3. Tư tưởng pháp gia của Hàn Phi 
Thời Chiến Quốc chính là thời kỳ lịch sử phát triển rực rỡ về tư tưởng “trăm hoa 
đua nở”, “bách gia chư tử”. 
Ở thời kỳ này có 3 dòng tư tưởng lớn nhất cùng tồn tại đó là: 
- Phái thứ nhất, có Nho gia và Mặc Tử, Khổng Tử muốn khôi phục nhà Chu. 
Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy yếu, không cứu được, lại mong có vị 
minh quân thay Chu thống nhất Trung Hoa bằng chính sách đức trị có sửa đổi ít nhiều. 
- Phái thứ hai, phái Đạo gia muốn giảm thiểu, thậm chí giải tán chính quyền, 
sống tự nhiên như thuở sơ khai, từ bỏ xã hội phong kiến để trở về xã hội Cộng Sản Nguyên 
Thuỷ. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 4 
- Thứ ba, phái pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến phân tán và lập 
ra chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo” của Khổng Mạnh bằng 
chính sách “Bá đạo”. 
Tư tưởng của Hàn Phi Tử: là dùng pháp trị nhưng lại trọng dân. Trước khi đặt ra 
luật lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua; quy tắc lập pháp 
phải lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải công bố luật cho rõ 
ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi nhiều, phải “chí công vô tư”,”vua tôi, sang 
hèn đều phải theo pháp luật”, thưởng phạt phải nghiêm minh, “danh chính, pháp hoàn bị 
thì bậc minh quân chẳng có việc gì phải làm nữa, vô vi mà được trị”. 
Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn gì thì cấp cho cái đó, không 
muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra quan điểm: bản chất con người là ác, 
muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn tính 
xấu của con người; theo các ông quản lý xã hội là vị pháp chứ không vị đức. 
Hơn hai nghìn năm sau, tư tưởng vị lợi của Hàn Phi được tái hiện trong tư tưởng 
“con người kinh tế” - cơ sở triết học của học thuyết quản lý theo khoa học của Taylor 
và bản chất con người là lời nhác và ham lợi của “Thuyết X”, được Mc. Gregor đưa ra. 
Thực dụng hơn, cực đoan hơn trong tư tưởng quản lý so với thời Taylor. Hàn Phi đã 
mở rộng cái bản chất vị lợi đến mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Chẳng hạn trong 
mối quan hệ cha - con, chữ “Hiếu” của Nho gia đã bị thay thế bằng sự tính toán lợi hại 
tàn nhẫn. 
Chúng ta có thể cho rằng, Hàn Phi là một người duy lý, duy lợi theo chủ nghĩa 
thực dụng. Song cũng phải thừa nhận rằng ông có một trí tuệ rất sâu sắc. Và chính ông 
đã vì sự tồn vong của đất nước mình mà phải chịu chết thảm, tuy rằng ông biết trước 
đó là số phận chung của các pháp gia có tài và có tâm, nhiệt thành yêu nước. Kỳ lạ 
hơn, Hàn Phi đã vượt rất xa thời đại mình khi ông nêu ra tư tưởng đấu tranh sinh tồn và 
giải thích nguyên nhân của sự nghèo khổ là do dân số tăng lên quá nhanh, vượt xa sự 
gia tăng của sản xuất (xem thiên ngũ đố). Hàn Phi nhắc các vị vua phải cứng rắn, 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 5 
nghiêm khắc trong việc trị nước, đồng thời ông cũng mong muốn họ thực hiện chí công 
vô tư, từ bỏ tư lợi, tà tâm cứ theo phép công mà làm thì nước sẽ thịnh: “Không nước 
nào luôn mạnh, không nước nào luôn yếu. Người thi hành pháp luật (tức vua) mà 
cương cường thì nước mạnh, người thi hành pháp luật mà nhu nhược thì nước yếu... 
Cho nên ở vào thời kỳ này, nhà cầm quyền nào biết từ bỏ lợi, tà tâm mà theo phép công 
thì binh sẽ mạnh, địch sẽ yếu”. Mặc dù dân trí thấp, người dân chỉ biết cái lợi trước 
mắt..., nhưng Hàn Phi vẫn đề cao chính sách dùng người, tài năng của nhà cai trị thể 
hiện ở việc dùng sức, dùng trí của người khác. Đây là một tư tưởng rất sâu sắc về quản 
lý mà Hàn Phi đã nêu ra. 
Hàn Phi phát triển học thuyết của mình trên cơ sở kế thừa của các pháp gia 
trước ông, nhưng phải đến Hàn Phi thì nó mới trở nên sâu sắc, phổ biến với nhiều nội 
dung mới. Hàn Phi dùng chữ “pháp” theo nghĩa phép tắc, còn pháp gia nói tới “pháp” 
là chỉ pháp luật. Hàn Phi ví pháp luật với dây mực, cái quy, cái cũ... tức là những đồ 
dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp không tách rời khỏi “thế và 
thuật” mà cùng tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp phải kịp thời. Hàn Phi viết: 
“Thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm lệnh không 
biến thì nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công” điều khiển hành vi 
của mọi người. Trong các phạm trù cơ bản của pháp học thi pháp là quan trọng nhất, 
sau mới đến “thế và thuật”. Hàn Phi đã kế thừa tư tưởng “vô vi” của Nho và Đạo, biến 
nó thành thuật cai trị của vua chúa. 
Trong cai trị - quản lý thì “tiên phú, hậu giáo”- trước hết là làm cho dân giàu sau 
đó thì giáo dục họ. Trong giáo dục thì “tiên học lễ - hậu học văn”. Nho gia chủ trương 
cai trị bằng đạo đức, bằng văn và đã phát triển học thuyết-phương pháp Đức trị (Nhân 
trị). Ngược lại, pháp gia đã đưa ra một học thuyết và phương pháp cai trị mới - pháp trị 
“Pháp bất vị thân”, pháp phải hợp thời, pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi 
hành; pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ thiểu số; thưởng phải trọng hậu, phạt phải 
nặng... Đó là tư tưởng về chính trị quản lý xã hội còn có ý nghĩa đối với hiện nay. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 6 
Vậy, thành công lớn nhất của giai đoạn này, mặc dù còn bị hạn chế dưới góc độ 
tư tưởng quản lý đã tạo lập nhiều quan điểm quản lý quan trọng thuộc phạm vi quản lý 
vĩ mô, đã vạch ra được logic của quá trình quản lý xã hội bao gồm các mức từ thấp đến 
cao: “Chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, đã đưa ra được trình tự tiến 
hành các hoạt động quản lý: “trị đạo, trị học, trị thể, trị tài, trị phong, trị thuật” mà ngày 
hôm nay trong quản lý nói chung, và quản lý kinh tế nói riêng vẫn còn có thể khai thác 
và sử dụng tốt. 
II. Vận dụng tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử vào công cuộc xây dựng xã hội 
Việt Nam hiện nay 
Pháp trị của Hàn Phi là dùng pháp luật để cai trị, chứ không phải dùng đạo đức 
để cai trị. Trong trường hợp này, pháp luật chỉ là công cụ của Nhà nước và Nhà nước 
đứng trên pháp luật. Một Nhà nước chuyên quyền sẽ ban hành mọi thứ luật mà Nhà 
nước đó muốn và cần để cai trị. 
Còn khái niệm pháp trị gắn liền với Nhà nước pháp quyền thì đối lập với khái 
niệm nhân trị. Pháp trị là pháp luật cai trị chứ không phải con người cai trị. Trong 
trường hợp này không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả Nhà nước. 
Theo cách hiểu như trên, pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập (với chính trị, 
tôn giáo...). Nó bao gồm ba ý nghĩa cơ bản sau đây: pháp trị là công cụ để điều chỉnh 
Nhà nước (điều chỉnh quyền lực); pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng 
trước pháp luật; pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức. 
Với tư cách là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai chức năng: một là 
hạn chế sự độc đoán của Nhà nước và hạn chế sự lạm quyền; hai là làm cho nhà nước 
hành xử hợp lý, làm cho chính sách của Nhà nước được anh minh. Lạm quyền được 
hạn chế bằng những nguyên tắc sau đây: 
- Bảo đảm tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật phải được đặt trên Nhà nước và 
đảng phái. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 7 
- Nhà nước phải tuân thủ một hệ thống thủ tục được xác lập từ trước và được công bố 
công khai. 
- Bảo đảm nguyên tắc người dân được làm mọi điều pháp luật không cấm, nhưng Nhà 
nước chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép. 
Mặc dù những nguyên tắc nói trên hạn chế khả năng hành xử tùy tiện của Nhà 
nước, nhưng chúng lại làm cho việc hành xử của Nhà nước được dẫn dắt nên thường 
hợp lý và anh minh. 
Với tư cách là công cụ bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức, chế độ pháp 
trị đòi hỏi: 
- Hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các quy định công bằng và minh bạch về thủ tục 
ban hành quyết định. 
- Các quy định về thủ tục ban hành quyết định phải được xác định từ trước và phải 
được công bố công khai từ trước. 
- Các quy định về thủ tục ban hành quyết định phải được áp dụng một cách công khai, 
minh bạch. 
- Các quy định về thủ tục ban hành quyết định phải được áp dụng một cách nhất quán. 
Việc xây dựng chế độ pháp trị là rất cần thiết để vận hành Nhà nước pháp 
quyền. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tránh được sự nhầm lẫn về khái niệm giữa 
pháp trị theo cách hiểu của người Trung Hoa cổ đại và pháp trị theo cách hiểu hiện đại. 
Vì rằng, nếu chúng ta nhầm lẫn thì việc xây dựng đất nước theo một mô hình “cổ kính” 
là điều rất dễ xảy ra. 
Trong một thời gian dài sau kháng chiến chống Pháp, chúng ta có khuynh 
hướng tiếp tục sử dụng đức trị trong trị nước. Đảng và Nhà nước chủ yếu dùng quy 
phạm xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Luật pháp ít và không hiện diện 
trong đời sống xã hội. Đường lối này đã khiến cho việc quản lý xã hội trở nên kém hiệu 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 8 
quả. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, nhiều người cho rằng pháp trị phải được đề 
cao trong quản lý xã hội (nhưng không phủ nhận đức trị) vì một số lý do sau: 
- Sau khi thực hiện đường lối đổi mới, xã hội Việt Nam đã thực sự phân hóa về giai 
tầng, về quyền lợi. Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, các giá trị về đạo đức 
gia đình, xã hội phần nào bị bóp méo, lệch chuẩn và không thể điều chỉnh lại nếu chỉ 
sử dụng đức trị. Vì thế, bên cạnh việc tuyên truyền, giáo dục, Pháp trị là giải pháp quan 
trọng để xây dựng và củng cố chuẩn mực đạo đức xã hội trong bối cảnh mới. 
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi Việt Nam tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, đặc 
biệt là tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO, hội nhập ngày càng sâu rộng 
hơn vào kinh tế quốc tế, pháp luật Việt Nam phải được điều chỉnh, hoàn thiện nhằm 
đảm bảo cho các hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam và các nước khác phù 
hợp với các chuẩn mực, thực tiễn quan hệ quốc tế. 
- Để thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa, 
chúng ta không thể không theo đuổi tư tuởng pháp trị phù hợp với bối cảnh kinh tế -
chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay. 
Như vậy, với những nguyên nhân trên, chỉ khi xây dựng được một nền pháp trị 
cứng rắn bất vị thân, thượng tôn luật pháp và kết hợp với sự hỗ trợ của đức trị (giáo 
dục đạo đức, tuyên truyền pháp luật), chúng ta mới có khả năng giải quyết đúng đắn 
các mối quan hệ xã hội phức tạp hiện nay. 
=> Mặc dù đường lối pháp trị này còn nhiều hạn chế, nhưng tư tưởng của nó vẫn có giá 
trị và từ những hạn chế của nó, có thể rút ra được nhiều bài học có ý nghĩa đối với công 
cuộc xây dựng xã hội và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam. 
Trong hơn mười năm trở lại đây, thực tiễn đất nước nói chung, quá trình cải 
cách hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước, tăng cường pháp chế 
XHCN nói riêng, đã và đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Vì vậy, đã xuất hiện những 
công trình khoa học nghiên cứu về Nhà nước và quản lý Nhà nước trong nền kinh tế thị 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 9 
trường về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN, về cải cách bộ máy hành 
chính nhà nước… 
Nhìn chung, những vấn đề này, nếu thực hiện nghiêm chỉnh đường lối pháp trị 
của pháp gia, kết hợp lý luận pháp trị với thực tiễn ở Việt Nam, thì hoàn toàn có thể 
khắc phục được. Tuy nhiên, cần tránh tính hình thức trong việc thực thi pháp luật và 
cần phải kết hợp giữa pháp trị với đức trị. 
Vận dụng những tư tưởng pháp trị vào xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN 
hiện nay lấy những mặt tích cực làm tiền đề, hiện nay chúng ta chủ trương xây dựng 
Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, 
đồng thời nâng cao trình độ làm luật của Quốc hội. 
Sự ra đời của học thuyết pháp trị của nó có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ ra sự 
tác động của pháp luật đối với hành vi của con nguời, với sự ổn định xã hội. Sự thành 
công trên thực tế của nó cũng chỉ ra vai trò quan trọng của pháp luật với sự cường 
thịnh của quốc gia. 
 Những hạn chế của đường lối pháp trị của Hàn Phi đem lại bài học kinh 
nghiệm cho việc xây dựng xã hội và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam 
 Có ba hạn chế lớn trong đường lối pháp trị của pháp gia: 
1. Hàn Phi chỉ nhìn thấy con nguời ở khía cạnh vụ lợi và phủ nhận đức trị. Việc nhìn 
nhận con nguời thế nào sẽ ảnh hưởng tới việc quản lý con nguời ra sao. Hàn Phi cho 
rằng tính nguời là “ác” một cách triệt để nên cho rằng chỉ có thể bằng lợi ích (để dụ) và 
bằng hình phạt (để đe dọa, ép buộc), cùng với việc điều khiển bên ngoài thông qua 
giám sát chặt chẽ thì mới có thể buộc những nguời làm việc cho mình cố gắng hết sức. 
Đây là cách nhìn nguời một cách phiến diện. Vì trên thực tế, con nguời có những lý 
tưởng cao đẹp và trong những hoàn cảnh nhất định, sẵn sàng vì các lý tuởng ấy, có thể 
tạm quên đi các quyền lợi cá nhân của mình. 
2. Cũng từ chỗ nhận thức bản tính con nguời là “đại ác” và ra đời trên cơ sở chống lại 
tư tuởng Nho giáo, Hàn Phi chủ trương loại trừ đức trị trong trị quốc. Đây cũng là sai 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 10 
lầm cơ bản vì theo lẽ tự nhiên có âm phải có dương, có cương phải có nhu, đạo trời là ở 
lấy chỗ thừa bù chỗ thiếu… Pháp luật là quan trọng để quản lý xã hội nhưng nếu chỉ sử 
dụng pháp luật thì mọi hoạt động sẽ trở nên cứng nhắc. 
3. Xét một cách tổng quát, cái gì “quá” đều không tốt: Đức trị quá mức, lòng dân coi 
thường mà loạn. Pháp trị quá mức, lòng dân sinh oán mà loạn. Vì thế, trong quản lý xã 
hội, pháp trị và đức trị phải thống nhất bổ sung cho nhau, tùy thời mà đổi vị trí chính, 
phụ thì xã hội mới có thể ổn định và phát triển. 
Như vậy, có thể nói đường lối pháp trị của pháp gia, mặc dù còn có những hạn 
chế lịch sử nhưng vẫn có những giá trị có ý nghĩ quan trọng đối với việc xây dựng và 
hoàn thiện pháp luật của Việt Nam. 
Trong pháp trị của Hàn Phi Tử chúng ta nên vận dụng những yếu tố “pháp và 
thuật” vì nó phù hợp với xã hội hiện nay đó là điều kiện để thực thi pháp luật, ngoài ra 
phải hạn chế về “thế” vì nó chỉ phục vụ cho những người có quyền lực: 
- Xây dựng pháp luật của vua, do vua, vì vua. 
- Tập trung quyền lực vào một cá nhân (vua) 
Tuy nhiên, việc nghiên cứu kế thừa tinh hoa và học thuyết chính trị - xã hội của 
nhân loại trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN còn 
nhiều hạn chế. Các nhà khoa học mới dừng lại ở việc nghiên cứu từng vấn đề cụ thể 
theo hai hướng chính: 
+ Nghiên cứu tập trung vào quá trình cải cách Nhà nước. 
+ Hướng nghiên cứu hoặc dịch thuật tập trung vào nội dung các tư tưởng chính 
trị - xã hội. 
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề hoặc 
về quá trình cải cách, hoàn thiện bộ máy Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới về 
những tư tưởng chính trị, pháp lý trên thế giới trong lịch sử. Do vậy, việc kế thừa theo 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 11 
hai hướng nghiên cứu trên sẽ mang lại những ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn nhất 
định cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 
Trong những năm qua, cùng với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện Nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế liên 
quan tới pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tế cần được giải quyết. 
Vì thế, khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật, Việt Nam cần tránh những hạn chế 
trên, phải xây dựng được một chế độ phân quyền theo mô hình tam quyền phân lập (tư 
pháp - hành pháp - lập pháp), thượng tôn pháp luật, theo đúng nghĩa không ai đứng trên 
pháp luật; pháp luật phải của dân, do dân, và vì lợi ích nhân dân; dân phải có quyền 
giám sát việc thực thi pháp luật. 
GV: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 
HVTH: NGÔ LÊ THẠNH PHONG – K20 Đ12 Trang 12 
KẾT LUẬN 
Học tập nghiên cứu tư tưởng chính trị Hàn Phi chúng ta thấy có nhiều tác 
nhân hợp lý có thể vận dụng trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hôm nay. Tác 
phẩm của ông vẫn còn một số hạn chế do điều kiện lịch sử lúc đó quy định. Đánh giá 
một cách khách quan những tác nhân hợp lý đó, nó đã đóng góp nhiều cho tư tưởng 
nhân loại. Tư tưởng "Trọng thế" nhắc chúng ta trong việc giành, giữ thực thi quyền 
lực chính trị, "Trọng thuật" nhắc chúng ta khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo trong mọi 
lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Tieu luan triet.pdf Tieu luan triet.pdf